Mqh Giữa LãI SuấT VốN Vay, Tsln VốN đT VớI Quy Mô VốN đT
In:
Submitted By o0nlyou0o Words 20601 Pages 83
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9_LỚP KINH TẾ ĐẦU TƯ 48A:
1. LÊ THỊ QUYẾN. 2. VŨ THỊ HỒNG THẮM. 3. NGUYỄN THỊ THANH THỦY. 4. NGUYỄN THỊ THƯ. 5. LÊ HUYỀN TRANG.
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế bền vững là đích hướng tới của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay, dù các quốc gia đó theo những thể chế xã hội khác nhau. Nhưng để phát triển bền vững được, các quốc gia cần phải xây dựng cho mình một hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, một nền tảng kinh tế vững chắc. Điều này chỉ có thể thực hiện thông qua đầu tư phát triển vì đầu tư phát triển là phương thức trực tiếp làm gia tăng tài sản của nền kinh tế, tăng tiềm lực cho mỗi quốc gia. Việt Nam từ khi giành độc lập đến nay, luôn kiên định mục tiêu phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phấn đấu từ nay đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp, nhanh chóng giảm bớt khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập WTO sẽ có nhiều cơ hội mà nếu nắm bắt được sẽ đưa đất nước “cất cánh” rất nhanh. Muốn vậy cần phải có một tiềm lực kinh tế vững mạnh. Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư đến phát triển kinh tế, Chính phủ luôn ưu tiên cho các hoạt động đầu tư phát triển. Nhưng để thực hiện được một dự án đầu tư thì không thể không kể đến yếu tố nguồn vốn và các yếu tố khác trực tiếp tác động tới quy mô vốn bởi vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên khi thực thi dự án. Nếu kiểm soát vốn tốt thì những trở ngại khác sẽ dần được khắc phục. Để làm rõ hơn về vấn đề này, nhóm kinh tế đầu tư chúng tôi đã quyết định chọn và nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư với quy mô vốn đầu tư. Vận dụng để giải thích tình hình đầu tư ở Việt Nam”. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức của các thành viên trong nhóm là có hạn nên bài nghiên cứu của chúng tôi còn có những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đọc và các thầy cô giáo hướng dẫn để bài viết được hoàn thiện hơn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT, TSLN VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ
A.LÃI SUẤT
1. Khái nệm chung về lãi suất
Có nhiều quan điểm khác nhau về lãi suất vốn vay, dưới đây là một số quan điểm hay sử dụng: Theo K.Marx: Lãi suất là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản xuất phải trả cho nhà tư bản tiền tệ vì đã sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học lượng cầu về tài sản: Các nhà kinh tế học về lượng cầu về tài sản chia thế giới tài sản thành hai phần.Phần thứ nhất là tiền mặt, phần thứ hai là những tài sản không phải tiền măt như trái phiếu, cổ phiếu và các hình thức đầu tư tài sản khác…Theo quan điểm này lãi suất là chi phí cơ hội cho việc nắm giữ tài sản tài chính tiền mặt, phiếu, hệ vay mượn hoặc cho thuê các dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ cổ phiếu hay các hình thức tài sản khác. Theo quan điểm của ngân hàng thế giới (WB): lãi suất là tỷ lệ phần trăm của tỷ lệ tiền lãi so với tiền vốn.
Vậy theo nghĩa chung nhất lãi suất là giá cả của tín dụng – giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người ta sẽ phải trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
2. Vai trò của lãi suất Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là một công cụ điều tiết cho vay kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả. Thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu; đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định tỷ giá. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển kinh tế mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài. Dưới góc độ kinh tế vi mô: lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành gửi tiết kiệm; đầu tư số vốn tích luỹ được vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác… Vậy với mức lãi suất cho vay hợp lý, sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, hạn chế thất nghiệp tăng mức sống của người đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.Và khi nền kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân tăng, sẽ tác động trở lại kích thích đầu tư phát triển. Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trương phát triển và theo đuổi chính sách tự do hóa tài chính (financial liberalization), lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là giữa cung và cầu về vốn trên thị trương quyết định.
3. Các lãi suất cơ bản
Mặc dù lãi suất là giá cả của tín dụng nói chung, song chúng ta lại biết rằng tín dụng có thể được thực hiện bằng các hình thức và phương pháp khác nhau, vì vậy mà lãi suất cũng được phân biệt thành các loại khác nhau. Dưới đây là một số loại lãi suất cơ bản.
3.1 Lãi suất đơn Lãi suất đơn là lãi suất được tính đối với những khoản tín dụng thực hiện dưới hình thức vay đơn. Loại tín dụng kiểu này người vay tiền sẽ trả một lần cho người cho vay vào ngày đến hạn trả nợ cả vốn và một khoản tiền phụ thêm chính là tiền lãi. Việc tính lãi suất loại này chỉ đơn giản là lấy số tiền lãi chia cho tổng số vốn vay theo thời gian của khoản tín dụng đó.
3.2 Lãi suất tích họp Lãi suất tích họp là lãi suất có tính đến yếu tố “ lãi mẹ đẻ lãi con”. Lãi suất tích họp được coi là công bằng và chính xác hơn trong việc đo lường lãi suất đối với các món vay dài hạn. Trên thực tế lãi suất tích họp vẫn được tính toán dựa trên cơ sở lãi suất đơn, nhưng do từ năm thứ 2 của thời hạn tín dụng do vốn tín dụng thực tế đã được tích luỹ thêm và lãi suất đơn tính cho các năm sau sẽ lớn hơn năm đầu và “tích họp” lại chúng ta sẽ có một mức lãi suất cho suốt thời kỳ khác với mức lãi suất đơn ban đầu.
3.3 Lãi suất hoàn vốn Đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn trả cố định hoặc trái phiếu coupon thì người ta áp dụng một loại lãi suất gọi là lãi suất hoàn vốn. Đây là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của tín dụng đó. Một trái phiếu cũng là một khoản tín dụng, vì vậy lãi suất hoàn vốn của nó là một tỷ lệ nào đó làm cho giá trị hiện tại của trái phiếu trên thị trường. Như vậy, đo lường lãi suất hoàn vốn là một phép tính ngược từ việc chúng ta cân bằng giá trị hiện tại của số vốn đã đầu tư (cho vay) với giá trị hôm nay của số vốn đó.
4. Phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa Trên thực tế, những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa.Vì vậy lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. Thông thường trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức đơn giản ir=in - ii Trong đó, ir, in, ii lần lượt là lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% ví dụ là 27%; lãi suất danh nghĩa, ví dụ là 132% thì lãi suất thực không thể tính như trên mà phải tính theo công thức:
In – ii
Ir= hay ir = (132-27)/(27+100) Ii + 1 Trong ví dụ này lãi suất thực xấp xỉ bằng 82,7 % và điều này cũng phản ánh đúng một xu hướng thực tế: tỷ lệ lạm phát càng cao lãi suất thực càng thấp. Nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu của cá nhân và quyết định đầu tư của các nhà đầu tư là lãi suất thực tế
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất. Trong các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước đóng vai trò trung tâm trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội. Trong các nước này thường không có thị trường tài chính và tài chính kiềm chế là mô hình tài chính phổ biến. Vì lẽ đó lãi suất trong các nước đó đều đo nhà nứơc quy tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng .Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện như vậy chủ yếu phụ thuộc vào ý chí của chính phủ mà không thể dự đoán hay xác lập bất cứ quy luật vận động nào. Trái lại trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính, các ngân hàng cũng như các tổ chức trung gian rất phát triển. Hơn nữa đa số các nước này lại theo đuổi chính sách tư do hóa và cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy luôn biến động phụ thuộc vào rất nhiều các nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều nhân tố khác. Sau đây là một số nhân tố cơ bản và quan trọng nhất. 5.1. Thay đổi về cung cầu. Lãi suất là giá cả của cho vay vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường. Mọi sự thay đổi của yếu tố cung cầu về vốn đầu tư đều tác động tới sự thay đổi của lãi suất. Khi cầu về vốn đầu tư tăng, khi cung chưa kịp tăng hoặc tăng không đủ khi đó lãi suất sẽ tăng. Ngược lại khi cung vốn đầu tư tăng mà cầu không tăng hoặc tăng chưa đủ khi đó lãi suất sẽ giảm. Tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và ngân hàng trung ương song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ: chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm. Mặt khác muốn duy trì sự ổn định lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 5.2. Bội chi ngân sách nhà nước Bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Ở một góc độ khác, thông thường gia tăng việc phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất trên thị trường vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa tài sản của các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng. 5.3. Mức độ rủi ro của dự án. Với những dự án có mức độ rủi ro cao,khả năng thu hồi vốn thấp khi đómức lãi suất cho vay của ngân hàng đối với các dự án này sẽ ở mức cao hơn mức lãi suất cho vay thông thường của các ngân hàng.Ngược lại với những dự án đầu tư có mức độ rủi ro thấp, khả năng thành công của dự án lớn, khả tnăng thu hồi vốn của các ngân hàng lớn khi đó lãi suất cho vay của ngân hàng với các dự án này sẽ thấp.
5.4. Thời hạn sử dụng vốn Với các dự án sử dụng vốn vay càng dài khi đó mức độ rủi ro của các dự án này càng cao.Do vậy các ngân hàng coi thời hạn sử dụng vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản để xác định mức lãi suất cho các dự án đầu tư. Ta có biểu đồ: i
[pic]
0 t
Trong đó: i: lãi suất vốn vay t: thời gian sử dụng vốn vay
5.5. Sự ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế các nước mở cửa với kinh tế thế giới, nền kinh tế mỗi nước chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường thế giới. Do vậy những yếu tố nước ngoài ảnh hưởng tới thị trường trong nước là một yếu tố tất yếu. Thị trường tài chính mỗi nước chịu ảnh hưởng lớn bởi thị trường tài chính quốc tế, lãi suất trong nước cung sẽ chịu ảnh hưởng bởi những biến động của thị trường tài chính cũng như nền kinh tế thế giới.
5.6. Sự thay đổi trong chính sách của chính phủ Chính phủ các nước có thể thông qua mức lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế của một vùng, miền, hay địa phương nào đó. Để phát triển một ngành kinh tế của một vùng miền nào đó chính phủ có thể dùng chính sách lãi suất ưu đãi, để hộ trợ địa phương hay vùng miền đó phát triển ngành nghề kinh tế mà chính phủ mong muốn. Chính phủ có thể áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất trên thị trường rất nhiều đối với những ngành nghề, những vùng miền mà chính phủ mong muốn phát triển. Nhưng thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng tới mức lãi suất. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Thông thường ai cũng sẽ quan tâm đến thu nhập thực tế, lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do đó, để duy trì một mức lãi suất thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi về thuế.
5.7. Lạm phát kỳ vọng. Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hang hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường.
58. Những thay đổi trong đời sống kinh tế xã hội. Ngoài những yếu tố được trình bày ở trên, sự thay đổi của lãi suất còn phụ thuộc vào các yếu tố thuộc đời sống kinh tế xã hội khác. Đó có thể là sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú, hay mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và gắn liền theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức tín dụng này. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỉ suất đầu tư cận biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ hay sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa tình hình kinh tế chính trị cũng như nhưng biến động tài chính quốc tế như những cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước ….đều ít nhiều tác động tới sự thay đổi của lãi suất các nước khác . Tất cả những vấn đề này gợi ý cho các nha nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất.
A. TỶ SUẤT LỢI NHUẬN
1.Khái niêm chung
1.1. Theo quan điểm của Keynes
Keynes cho rằng một người mua một tài sản đầu tư hay một tài sản cố định thì người đó mua quyền để được mua một khoản lợi tức trong tương lai gọi là lợi tức kì vọng của vốn đầu tư. Ông gọi giá cung tài sản cố định là giá khuyến khích nhà sản xuất làm thêm một đơn vị tài sản như vây.
Ông gọi mối quan hệ giữa lợi tức triển vọng của tài sản cố định và giá cung hay chi phí thay thế nó là hiệu quả viên của giới hạn tư bản.
1.2. Khái niệm
Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được trên một đơn vị vốn đầu tư.
Nếu tính cho từng năm hoạt động thì:
RRi= [pic]
Trong đó +Wipv là lợi nhuận thuân thu được năm thứ i tính theo mặt bàng hiện tại (thời điểm dự án bắt đầu hoạt động) +Ivo : là vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động. +RRi : Là tỉ suất lợi nhuận của vốn đầu tư vào năm i
Nếu tính bình quân của đời dự án thì:
[pic]=[pic]
Trong đó: + Wpv: là lợi nhuận bình quân năm của dự án theo mặt bằng hiên tại + RR: là tỉ suất lợi nhuận bình quân năm. Nó có tác dụng để so sánh các dự án.
Nhận xét: muốn khuyến khích được nhà đầu tư đầu tư vào dự án thì RR phải cao hơn lãi suất ngân hàng.
2. Vai trò của tỉ suất lợi nhuận đến hoạt đồng đầu tư Xét trên góc độ vi mô: Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp. Do vậy ở đâu có lợi nhuận kì vộng cao thì nhà đầu tư sẽ dốc vốn vào đó. Lúc này tỉ suất lợi nhuận chính là nhân tố quyết định xem có đầu tư hay không. Mặt khác, tỉ suất lợi nhuân vốn đầu tư phản ánh khả năng hoàn vốn của một dự án, qua đó có thể đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư. Xét trên góc độ vĩ mô: Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư càng tăng, càng có nhiều cơ hội đầu tư, các doanh nghiệp có nhiều ý định vay vốn để tăng vốn đầu tư.Nếu tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư trong một ngành , một lĩnh vực,một địa phương tăng cao sẽ dẫn đến tổng số hàng hoá và dich vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế đó tăng lên, thu nhập quốc dân tăng.
B. QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ
Khái niệm vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư. Vốn là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động đầu tư, hay nói cách khác, vốn là yếu tố quyết định một dự án có được thực thi hay không. Về bản chất, vốn đầu tư là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của Nhà nước và của xã hội. Vốn đầu tư bao gồm: + Tiền mặt các loại. + Hiện vật hữu hình: nhà xưởng, máy móc thiết bị, tài nguyên thiên nhiên… + Hàng hóa vô hình, công nghệ, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu, biểu tượng, uy tín của hàng hóa, bằng phát minh sáng chế… + Các dạng tài sản đặc biệt: vàng, bạc, đá quý… Để đo lường lượng vốn đầu tư vào một dự án nào đó, người ta dùng thuật ngữ quy mô vốn. Quy mô vốn là lượng vốn được phân bổ cho một dự án đầu tư được quy đổi giá trị bằng tiền. Quy mô vốn có thể cho ta thấy được dự án đầu tư đó là lớn hay nhỏ, có ảnh hưởng rộng hay hẹp… đến nền kinh tế. Quy mô vốn cũng thể hiện phần nào tầm quan trọng của một dự án đầu tư.
Vai trò của quy mô vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Quy mô vốn đầu tư phù hợp có vai trò quan trọng đến việc quyết định hoạt động và hiệu quả của các hoạt động đầu tư phát triển.
3.1. Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
Tác động đến tổng cầu Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số liệu ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Xét trong ngắn hạn, khi tổng cầu chưa kịp thay đổi, việc tăng quy mô vốn đầu tư - tăng cầu đầu tư sẽ làm cho tổng cầu AD tăng (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).
Công thức xác định tổng cầu AD: AD=C + I + G + NX.
Trong đó: C: Tiêu dùng. I: Đầu tư. G: Chi tiêu chính phủ. NX: Xuất khẩu ròng.
Xét theo hình 1: đường cầu AD dịch phải (AD→AD’), kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo (Q0→Q1), giá cả các yếu tố đầu vào của đầu tư tăng lên (P0→P1). Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ….,thể hiện qua phương trình: Q = F (K, L, T, R….).
Trong đó: K: Vốn đầu tư. L: Lao động. T: Công nghệ. R: Nguồn tài nguyên.
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).
Khi thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Theo đồ thị ,tổng cung AS dịch chuyển sang phải ( AS→AS’), sản lượng tiềm năng tăng từ Q1→Q2, do đó giá cả sản lượng giảm xuống từ P1→P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại là nhân tố kéo, tiếp tục kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Sản xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Hình 1:
[pic]
Tác động của quy mô vốn đầu tư đến tổng cung, tổng cầu. (Đồ thị 1).
3.2. Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế….do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
|ICOR= |Tỷ lệ vốn đầu tư /GDP |
| |Tốc độ tăng trưởng kinh tế |
Theo công thức trên, nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào mức tăng quy mô vốn đầu tư.
3.3. Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, các vùng. Quy mô vốn có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ví dụ, đối với cơ cấu ngành, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển những ngành mới….do đó, làm dịch chuyển cư cấu ngành kinh tế.
Những yếu tố tác đông đến quy mô vốn đầu tư.
4.1. Lãi suất (lãi suất thực tế). Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư - quyết định quy mô vốn đầu tư thông qua việc ổn định kinh tế vĩ mô - mà còn tác động đến dòng chảy các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng quy mô, số lượng các nguồn vốn càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa với tiềm năng quy mô vốn nước ngoài tăng và là công cụ hữu hình để chính phủ bảo vệ được nguồn vốn nước mình, ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài. Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có hai mặt, đó là khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư sẽ cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư. Dẫn đến quy mô vốn có xu hướng giảm xuống.
Vì vậy, khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức lãi suất phù hợp, góp phần quan trọng trong việc tạo quy mô vốn phù hợp, quyết định hiệu quả huy động vốn.
4.2.Tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được từ một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện. Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng giúp nhà đầu tư quyết định quy mô vốn đầu tư phù hợp với từng dự án đầu tư. Nhưng khi vốn đầu tư tăng dần, tỷ suất lợi nhuận biên sẽ giảm dần. Nhà đầu tư chỉ quyết định tiếp tục đầu tư (tăng quy mô vốn) khi tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất tiền vay.
4.3.Sản lượng nền kinh tế. Khi sản lượng nền kinh tế gia tăng sẽ là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng và tốc độ tăng của vốn đầu tư không giống nhau. Mỗi sự thay đổi sản lượng nền kinh tế đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư cùng chiều. Nhưng sự biến động của vốn lớn hơn nhiều lần sự biến động của sản lượng.
4.4. Chu kỳ kinh doanh. Như đã phân tích ở trên, ta thấy quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào sản phẩm đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng mức sản lượng này phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh. Khi chu kỳ kinh doanh vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng, nhu cầu về quy mô vốn tăng và ngược lại.
4.5. Các yếu tố khác. Cùng với lãi suất, các quy định về thuế của chính phủ (đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp) cũng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư. Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư, làm cho thu nhập của các nhà đầu tư giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư, quy mô vốn bị thu hẹp. Mặt khác chính phủ cũng có thể khuyến khích đầu tư bằng hình thức miễm giảm thuế với những khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư, do đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng. Môi trường đầu tư cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư. Đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, như thực trạng cơ sở hạ tầng, những quy định của pháp luật đầu tư, nhất là những quy định có liên quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công….); chế độ dất đai (quy chế thuê mướn chuyển nhượng, thế chấp, giá cả…), các loại thủ tục hành chính, tình hình chính trị - xã hội…. Nếu những yếu tố trên thuận lợi sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư và thu hút được nhiều vốn đầu tư - quy mô vốn tăng. Trong việc tạo lập môi trường đầu tư chính phủ giữ một vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến những chính sách nhằm tăng được lòng tin trong đầu tư và kinh doanh.
I. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT, TSLN VỐN ĐẦU TƯ VÀ QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ
1.Mối quan hệ giữ lãi suất vốn vay và quy mô vốn đầu tư. Lãi suất là một công cụ tài chính quan trọng của mỗi quốc gia trong việc điều hành chính sách tiền tệ, để thực hiện mục tiêu kinh tế của mỗi nước trong mỗi giai đoạn. Quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố trong đó lãi suất là một trong những nhân tố quan trọng quyết định quy mô đầu tư. Các nhà đầu tư thường đi vay vốn để đầu tư, khi đó họ phải trả lãi suất cho các khoản vay đó, đó là giá cả của khoản tiền vay. Khi lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nhà đầu tư không thu được lợi nhuận từ các dự án đầu tư. Khi đó sẽ có ít các nhà đầu tư vay vốn và quy mô vốn đầu tư theo đó cũng thu hẹp . Ngược lại khi lãi suất thấp khi đó sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn, khi đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng. Vì vậy có thể thấy giữa lãi suất vốn vay và quy mô vốn đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch. Ta có thể thấy rõ mối quan hệ đó qua phương trình sau: I = I0 – bi
Trong đó : I : đầu tư dự kiến i : lãi suất trung bình/ năm Io : đầu tư tư đinh (đầu tư không phụ thuộc vào lãi suất ) b : độ nhạy cảm của đầu tư đối với lãi suất.
Ta có biểu đồ thể hiện mối quan hệ như sau: I
[pic]
0 i Ta thấy lãi suất và đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch, khi lãi suất tăng thi đầu tư giảm va ngược lại.
2. Quan hệ giữa TSLN vốn đầu tư và qui mô vốn đầu tư . Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư là yếu tố quan trọng chỉ cho các nhà đầu tư nên đầu tư vào đâu, đầu tư vào lĩnh vực gì và có nên tăng vốn đầu tư hay không, Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư có quan hệ tỉ lệ thuận đối với qui mô vốn đầu tư. Khi một ngành hày một lĩnh vực nào đó có tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư cao, người ta sẽ đầu tư vào đó. Qui mô vốn đầu tư tăng lên sẽ tác động ngược chiều đối với tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư: khi qui mô vốn đầu tư càng tăng thì tỉ suất lợi nhuận biên giảm xuống. Điều này cũng cho ta biết được là tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm. ❖ Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư biên giảm dần do các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Khi đầu tư tăng lên, khối lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường tăng lên, do đó, giá cả hàng hoá tăng lên, kéo theo sự giảm sút của lợi nhuận Thứ hai: Cung hàng hoá tăng thêm sẽ làm gia tăng chi phí tư bản thay thế. Trong diều kiện kĩ thuật, tích luỹ tư bản tăng nhanh thì hiệu quả biên của tư bản có thể dẫn tới 0. Điểu đó đã làm giảm tính tích cực của nhà kinh doanh mở rộng đầu tư. Thứ ba: Đầu tư tăng sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hơn( cung hàng hoá tăng). Do đó giá hàng hoá giảm(giả sử chi phí ssản xuất không đổi) lợi nhuận trên một sản phẩm giảm. Vì vậy tỉ suất lợi nhuận trên một đơn vị vốn đầu tư giảm hay hiêu quả biên của vốn đầu tư giảm. Thứ tư: Xuất phát từ góc độ cầu về vốn đầu tư, Khi đầu tư tăng lên, nhu cầu về vốn đầu tư tăng khiến cho giá cả vốn đầu tư tăng( lãi suất tiền vay của vốn đầu tư tăng).Giá thành của một đơn vị sản phẩm tăng( Giả sử rằng các chi phí khác của sản phẩm không đổi). Mặt khác giá bán của một đơn vị sản phẩm không đổi =>tỉ suất lợi nhuận biên của vồn giảm Trong xã hội hiện đại có sự tách rời giữa tư bản sở hữu và người sử dụng. Người đi vay để đầu tư phải tra một khoản lãi suất nhất định, vì thế buộc người đi vay phải quan tâm đến tỉ suất lợi nhuận biên của vốn và lãi suất. Sự chênh lệch đó càng lớn thì giới hạn đầu tư càng lớn.( hay qui mô vốn đầu tư tăng) . Người ta sẽ tiếp tục đầu tư chừng nào tỉ suất lợi nhuận biện của vốn đầu tư còn lớn hơn lãi suất. Khi tỉ suất lợi nhuận biên của vốn đầu tư bằng lãi suất thì người ta sẽ không đầu tư nữa. Việc xác định được tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư biên là rất khó nên nhà đầu tư sẽ dưa trên kì vọng để đầu tư. Để nghiên cứu vấn đề nay, chúng ta cùng xem xét lý thuyết về quỹ đầu tư nội bộ. Theo lí thuyết này thì đầu tư có mối quan hệ tỉ lệ thuận với lợi nhuận thực tế. ( I=f ).do đó dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư lớn hơn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động được bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại: vay thương mại, vay ưu đãi, vay từ người lao động. Nó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu – đây là trường hợp huy động vốn từ bên ngoài.Tuy nhiên tong các khoản vay trên thì chỉ có lợi nhuận giữ lại hay nhận viên trợ là cách tăng vốn đầu tư an toàn. Khi vay mượn thì phải trả nợ, nhất là khi kinh tế lâm vào khó khăn, doanh nghiệp không kịp trả nợ sẽ dẫn đến phá sản.
Chính vì vậy theo lí thuyết này, doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ, chính từ sự gia tăng lợi nhuân sẽ làm tăng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Mối quan hệ giữa lãi suất vốn va, TSLN vốn đầu tư với quy mô vốn đầu tư
Có hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp là tỷ suất lợi nhuận và lãi suất. Trong đó, lãi suất là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng tới quyết định của các nhà đầu tư, tỷ suất lợi nhuận là nhân tố quan trọng chỉ cho các nhà đầu tư nên đầu tư vào đâu, lĩnh vức đầu tư nào, quy mô vốn đầu tư như thế nào.
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư được đo bằng lợi nhuân rong thu được chia cho qui mô vốn đầu tư RR = [pic]
Tỉ suất lưọi nhuận vốn đầu tư có quan hệ tỉ lệ thuận một chiều vời đầu tư I một ngành hoăc một lĩnh vức hoạt động kinh doanh nào đó mang lại tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư cao tì người ta sẽ đầu tư vào nhiều. Nhưng khi đầu tư vào nhiều tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư sẽ giảm xuống ở đây tác động mang tính trái chiều.
- Theo lý thuyết của Mác thì tỷ suất lợi nhuận [pic] m: là giá trị thặng dư cũng coi bằng lợi nhuận thuần. C + V: là chi phí ứng trước, nó chính là số vốn đầu tư.
Nguồn vốn sẽ được phân bổ vào các ngành khác nhau có tỷ suất lỷ suất lợi nhuận khác nhau và kết qua hoạt động di chuyển vốn là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
Như vậy tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư sẽ chỉ cho người ta biết phải đầu tư vào đâu, còn đầu tư bao nhiêu, lương vốn như nào thì phải căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận biên hay hiệu quả biên của vốn đầu tư
Chỉ tiêu này được đo bằng số đơn vị lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn tăng thêm [pic] Lý thuyết của Keynes đã chỉ ra rằng nếu hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn lãi suất tiền vay thì hoạt động đầu tư vẫn còn tiếp tục. Điều đó có nghĩa là người ta sẽ tiếp tục tăng đầu tư đến điểm mà hiệu quả biên của lãi suất bằng với vốn vay. Hiệu quả biên của vốn cao hay thấp nó keo theo nhu cầu đầu tư tăng hay giảm ứng với mỗi mức lãi suất Vậy hiệu quả biên của vốn cho phối hợp với các điều kiện về cầu đầu tư . Đường hiệu quả biên của vốn chính là đường cầu đầu tư. Còn lãi suất chỉ phân phối đến việc cung ứng các khoản vốn đầu tư này.( Được thể hiện bằng đường SV trên đồ thị)
Điểm E là điểm cân bằng, tại đó với mức lãi suất cân bằng r0 lượng vốn đầu tư sẽ là I0 và hiệu quả biên của vốn là Ir0. Đầu tư sẽ được tiến hành tới Io.
-Phân tích sự ảnh hưởng từ phía lãi suất Nếu lãi suất tăng từ ro => r1 làm hiệu quả biên của vốn sẽ là Iro => Ir1. Vậy đầu tư sẽ được tiến hành tới Ir1 =r1 tương ứng với lượng vốn là I1. Lượng vốn giảm làm tỷ suất lợi nhuận RR tăng. Nếu lãi suất tiếp tục tăng vượt quá tỷ suất lợi nhuận biên thì hoạt động đầu tư không diễn ra. Ngược lại, lãi suất giảm r0 => r2 thì tương ứng với đầu tư sẽ được tiến hành tới I2.
Vậy ta có mối quan hệ TSLN Nếu r tăng => I giảm => RR tăng. r giảm => I tăng => RR giảm.
- Phân tích ảnh hưởng từ sự thay đổi của TSLN (RR)
Ta có sơ đồ sau:
Khi RR tăng => I tăng => r tăng. RR giảm => I giảm => r giảm. Vậy khi lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn tăng thêm mà tăng thì sẽ kích thích tăng lượng cầu đầu tư, cầu đầu tư tăng lãi suất cũng tăng để cân bằng cung cầu trên thị trường. Giữa lãi suất và tỷ suất lợi nhuận luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, từ đó quyết định đến quy mô vốn đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận chính là phần lợi nhuận nhà đầu tư thu được trên một đơn vị vốn đầu tư, trong khi lãi suất lại là chi phí cho việc sử dụng một đồng vốn đầu tư. Rõ ràng là nếu lãi suất lớn hơn tỷ suất lợi nhuận tức là chi phí / VĐT lớn hơn lợi nhuận /VĐT thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại sẽ tăng quy mô đầu tư. Ta có thể thấy rõ mối quan hệ này thông qua phân tích đồ thị sau:
Giả sử lãi suất vốn vay trên thị trường là i.
Tỷ suất lợi nhuận IRR.
A, B, C: Quy mô vốn đầu tư của dự án A, B, C.
Với dự án A: IRRA > iA = i1.
Với dự án B: IRRB > iB = i2, i3.
Với dự án C: IRRC > iC = i4. Như vậy, nhà đầu tư quyết định đầu tư vào dự án A, B vì ở hai dự án này tỷ suất lợi nhuận IRR lớn hơn lãi suất vốn vay, do đó nếu đầu tư sẽ có lãi. Còn với dự án C thì loại vì IRR nhỏ hơn lãi suất. Do vậy, việc điều chỉnh mức lãi suất phù hợp với tỷ suất lợi nhuận là rất phức tạp đòi hỏi nhà quản lý phải có cái nhìn bao quát cũng như quyết định nhạy bén với những thay đổi trên thị trường.
Chương II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỐN VAY, TSLN VỚI QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ
I. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY
Tổng quan chung về tình hình đầu tư phát triển ở Việt Nam
Đối với Việt Nam, một quốc gia đang trên đà phát triển thì rất cần phải chú trọng đến hoạt động đầu tư và nguồn vốn phục vụ đầu tư. Tuy vậy, một thực tế ở Việt Nam cho thấy rằng, sự tăng trưởng nguồn vốn trong đầu tư phát triển lại góp phần rất lớn vào tăng trưởng GDP hàng năm. Mối quan hệ giữa tốc độ tăng vốn đầu tư và tốc độ tăng GDP.
Hình 1: Quan hệ giữa tăng trưởng vốn và tăng GDP từ năm 1995 – 2007[pic] Nguồn: Tác giả tính từ nguồn tài liệu của TCTK.
Xem xét tốc độ tăng GDP và sự biến động của tỷ lệ đầu tư trong GDP cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam từ đầu thập niên 1990 gắn liền với việc gia tăng mạnh mẽ của tỷ lệ đầu tư trong GDP. Nếu như trong thời kỳ 1986 –1990 tỷ lệ đầu tư thấp là 12,6%, thì tốc độ tăng trưởng cũng chỉ đạt 4,3 %. Trong khi đó giai đoạn 1991 – 1995 khi tỷ lệ đầu tư lên tới 22,3% thì tốc độ tăng GDP tăng mạnh lên tới 8,2%. Trong giai đoạn 1996 – 2000 tỷ lệ tỷ lệ đầu tư trong GDP đã đạt 33,2 % tốc độ tăng GDP giảm nhẹ xuống còn gần 7%. Đặc biệt trong giai đoạn 2001 – 2007 tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng mạnh lên đến 38,8 % thì tốc độ tăng GDP là 7,62%. Sự sụt giảm của tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1998 đến 2003 một phần là do cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và do cơ chế chính sách ngày càng không theo kịp với tình hình mới làm cho hiệu quả của vốn đầu tư giảm sút nhanh, dẫn đến tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng nhanh trong khi tốc độ tăng GDP vẫn chưa được phục hồi so với thời kỳ trước khủng hoảng.
Qua đó, ta thấy biến động của quy mô vốn đầu tư và tốc độ tăng trưởng GDP là cùng chiều. Nhưng tốc độ biến động của quy mô vốn nhanh hơn của GDP một trong số các lý do chính là độ trễ trong đầu tư.
Phân chia đầu tư theo theo các thành phần kinh tế.
Hình 2: cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế.
[pic]
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế bao gồm 3 khu vực là khu vực kinh tế nhà nước (KTNN), kinh tế ngoài ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó đầu tư của khu vực KTNN luôn chiếm tỷ trọng cao trên dưới 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng đầu tư của KTNN tăng mạnh trong giai đoạn 1998 – 2002 do việc thực thi chính sách kích cầu của nhà nước. Trong thời gian này đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm. Nhưng do ảnh hưởng của khủng hoảng ở Đông Á lượng vốn FDI vào Việt Nam giảm mạnh trong thời kỳ 1998 – 2002 nên tỷ trọng khu vực này trong tổng vốn đầu tư chỉ còn chiếm 18,2%. Nguồn FDI mới bắt đầu tăng trở lại từ năm 2005. Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh cũng giảm trong giai đoạn 1997 –2002 do ảnh hưởng của khủng hoảng ở Đông Á. Tuy nhiên tốc độ giảm của khu vực này không nhiều do Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000 đã thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân. Tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh tăng mạnh từ năm 2002 đã đã vượt mức 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội..
Đánh giá đầu tư phát triển theo hệ số ICOR.
Bảng 1: Đánh giá hiệu quả đầu tư thông qua chỉ số ICOR
|Năm |2000 |2001 |2002 |2003 |2004 |2005 |2006 |
|Chi đầu tư phát triển |27,19 |31,00 |30,51 |32,91 |30,87 |30,15 |28,68 |
|Trong đó: Chi XDCB |24,06 |27,85 |27,49 |30,04 |28,83 |27,73 |26,32 |
Nguồn: tổng cục thống kê. Qua bảng trên ta thấy, tỷ lệ chi đầu tư phát triển trong chi ngân sách đang có xu hướng tăng, trong chi chi đầu tư phát triển chủ yếu là chi cho xây dựng cơ bản.
Nếu xét trong tổng vốn đầu tư xã hội: Xét chung cho giai đoạn 2001_2005 vốn đầu tư từ ngân sách chiếm 24.5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội . Trong những năm tiếp theo, vốn đầu tư từ ngân sách tăng về giá trị tuyệt đối nhưng giảm về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới mở cửa, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2001_2005 nguồn vốn này chiếm 14% tổng vốn đầu tư phát triển. Trong những năm tiếp theo nguồn vốn này sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể. Ngày 19/9/2008, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 106/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ về tín dụng đầu tư ( miễm giảm chính sách ưu đãi tín dụng ) .Tuy nhiên, cũng phải nói rõ thêm là việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước khác với việc điều chỉnh lãi suất của hệ thống ngân hàng thương mại. Lãi suất của hệ thống NHTM dựa vào cung - cầu vốn trên thị trường để đưa ra lãi suất cho vay, còn việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước phải căn cứ vào lãi suất huy động thị phần cổ phiếu để xác định lãi suất cho vay phù hợp. Mức lãi suất tín dụng nhà nước hiện tại là phù hợp với mục tiêu chung, một mặt tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, mặt khác giảm bớt cấp bù của ngân sách.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Theo bộ kế hoạch và đầu tư, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư thường chiếm 14_15% tổng vốn đầu tư xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.na
Nguồn vốn của dân cư và tư nhân. Đây là nguồn vốn hiệu quả, linh hoạt, giải quyết công ăn việc làm đáng kể.
Trong giai đoạn 2001 - 2005, nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng về cả quy mô và tỷ trọng. Khu vực tư nhân trong nước của Việt Nam đã phát triển rầm rộ kể từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp vào đầu năm 2000. Luật này đã góp phần tạo ra khoảng 62.300 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư khoảng 7,4 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này chiếm khoảng 25% tổng số vốn đầu tư ở Việt Nam so với 20% của khu vực đầu tư nước ngoài.Tính riêng năm 2007, vốn đầu tư trong nước của tư nhân và doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm tỷ trọng và mức tăng trưởng cao nhất, đạt 106 ngàn tỷ đồng (tăng 19.5%). Theo kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, nguồn vốn này chiếm 28.6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
2.2. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam Đây là nguồn đóng góp vốn chính cho các hoạt động đầu tư của Việt Nam hiện nay, trong đó chủ yếu là FDI và ODA.
Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm gần đây có những biến động. Tỉ trọng vốn đầu tư nước ngoài trên tổng vốn đầu tư đã giảm từ 41.3% năm 1995 xuống 33.4% năm 2000 và còn 23.8% năm 2005 (biểu đồ hình 1). Một số nguyên nhân của tình trạng này như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á, nền kinh tế thiểu phát giai đoạn 1998 – 2002, môi trường đầu tư của Việt Nam chậm thay đổi, việc Trung Quốc gia nhập WTO đã thu hút một lượng lớn vốn FDI vào trong nước… Trong năm 2006 – 2007, đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ vào Việt Nam, tuy vậy vẫn chưa thể bằng giai đoạn trước năm 1997.
Nguồn: Tổng cục thống kê. Vốn FDI có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trong khoảng vài ba năm gần đây, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng gia tăng làm tỉ trọng đầu tư của khu vực này trong tổng đầu tư cũng tăng. Tuy vậy, tỉ trọng của thành phần vốn này trên tổng vốn đầu tư cũng thay đổi theo từng thời kỳ. Giai đoạn 1995 – 1997, tỉ trọng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng mạnh, nhưng đến giai đoạn 1997 – 2005 thì giảm nhanh và mới chỉ tăng trở lại từ năm 2005. Trong giai đoạn 2000 – 2005, tỉ trọng khu vực này trong tổng đầu tư chỉ còn chiếm 18.2%.
Đầu tư FDI vào Việt Nam hiện nay đã thông thoáng hơn so với trước kia, khi luật Doanh nghiệp chưa ra đời. Hình thức đầu tư ban đầu chủ yếu là liên doanh với doanh nghiệp trong nước rồi phát triển lên thành các công ty 100% vốn nước ngoài. Luật doanh nghiệp sửa đổi bổ sung đã thể hiện rõ mong muốn của chính phủ tới việc thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Trong năm 2008, khi lạm phát lên đến mức đỉnh điểm, lãi suất ngân hàng bị đẩy lên cao đã hút theo một lượng lớn vốn FDI vào trong nước. Chỉ tính riêng trong 9 tháng đầu năm, các doanh nghiệp nước ngoài đã góp vốn vào Việt Nam khoảng 8 tỷ USD và đạt doanh thu 30.4 tỷ USD. Hiện Việt Nam vẫn là môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt Nam đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, mức tăng trưởng của khu vực này luôn cao hơn mức tăng trưởng kinh tế. và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp.
Hình 4: Tỉ trọng đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân trong tổng đầu tư của khu vực doanh nghiệp.
[pic]
Nguồn: Vụ tài sản quốc gia, Tổng cục thống kê. Vốn viện trợ nước ngoài (ODA).
ODA là khoản tiền vay của chính phủ nước ngoài hay các tổ chức quốc tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế. Chủ thể đi vay là chính phủ. Khi đi vay vốn ODA, chính phủ Việt Nam phải thực hiện những cam kết (thường là cam kết chính trị) từ các chủ thể cho vay. Do vốn chủ yếu được dùng cho đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nền kinh tế nên nguồn vốn này có khá nhiêu ưu đãi. Lãi suất cho vay thường là rất thấp và có những khoản không hoàn lại. Đây là nguồn vốn rất quan trọng vì nó được chính phủ dùng cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các dự án phát triển nền kinh tế. Tỉ suất lợi nhuận trong khu vực này thường không cao, hiệu quả sử dụng vốn cũng thấp, gây lãng phí thất thoát tài sản. Hàng năm, vốn ODA cam kết của các tổ chức nước ngoài ký với Việt Nam vẫn tăng, năm 2006 vốn cam kết đạt 3.75 tỷ USD, năm 2007 đạt 4.45 tỷ USD, đến năm 2008 đã tăng lên mức kỷ lục 5.426 tỷ USD. Tuy vậy tốc độ giải ngân trong nước lại rất thấp, năm 2006 là 1.8 tỷ, năm 2007 là 2.0 tỷ, dự kiến năm 2008 là 2.2 tỷ USD, chưa kể việc quản lý nguồn vốn khá lỏng lẻo. Mức giải ngân ODA hàng năm chỉ đạt khoảng 70 – 80% kế hoạch đề ra cùng với việc phần lớn các dự án đầu tư đều kéo dài và đạt hiệu quả thấp đã gây thất thoát lãng phí tài sản cho xã hội, lợi nhuận không cao.
Hình 5 :Tình hình cam kết và giải ngân ODA từ 1993 – 2007.
[pic]
Nguồn: Vụ hợp tác quốc tế, Bộ kế hoạch và đầu tư. Cần chú ý là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam càng nhiều là lợi thế nhưng cũng đặt ra nhiêu thách thức trong việc quản lý vĩ mô nền kinh tế.
II.ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT ,TỶ SUẤT LỢI NHUẬN VỐN ĐẦU TƯ ĐẾN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY .
1. Tác động của lãi suất vốn vay tới đầu tư phát triển
2.1. Mô hình kinh tế lượng đánh giá mối quan hệ giữa lãi suất va quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp. Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng trưởng kinh tế. Lãi suất và đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch, khi lãi suất tăng thì chi phí đầu tăng, quy mô vốn đầu tư sẽ giảm. Và ngược lại khi lãi suất giảm thì quy mô vốn đầu tư sẽ tăng . Vì vậy các quốc gia sử dụng lãi suất là một công cụ mạnh để kích thích đầu tư phát triển . Trước hết ta xét hành vi của doanh nghiệp dưới sự biến động của lãi suất. Ta biết yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi đầu tư của doanh nghiệp là lãi suất thực ,lãi suất danh nghĩa không phải là yếu tố để doanh nghiệp ra quyết định đầu tư. Dưới đây ta sẽ xem xét hành vi đầu tư của doanh nghiệp với lãi suất thực dài hạn. Trong giai đoạn 2000 – 2007, mối quan hệ giữa lãi suất thực ngắn hạn (tiền gửi huy động 3 tháng) với lãi suất thực dài hạn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, biến động cùng xu hướng, sự tăng lên trong lãi suất ngắn hạn có tác động làm tăng lãi suất dài hạn. Điều đó cũng cho thấy yếu tố kỳ vọng về lạm phát cùng xu hướng với sự biến động của lãi suất ngắn hạn (xem đồ thị 6).
[pic]
Đồ thị 3 về mối quan hệ giữa lãi suất thực trung, dài hạn với mức độ đầu tư của toàn xã hội từ năm 2000 - 2006 (thông qua chỉ tiêu vốn đầu tư thực hiện theo giá so sánh). Qua đồ thị cho thấy, lãi suất thực có tác động tương đối rõ đến mức độ đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân hơn là các doanh nghiệp nhà nước với một độ trễ nhất định. Kết quả kiểm định bằng mô hình kinh tế lượng sẽ minh chứng rõ hơn cho nhận định này.
[pic]
Đánh giá tác động của lãi suất đến đầu tư thông qua mô hình hiệu chỉnh, bao gồm các biến sau:
- Biến phụ thuộc: mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư của khu vực tư nhân (di_pri), mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực nhà nước (di_gov), tính theo giá cố định năm 1986 ;
-Biến giải thích: biến lãi suất dài hạn thực (drate_longr), đơn vị %/năm;
Mẫu số liệu từ 1990-2006 theo năm.
Đánh giá mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất dài hạn thực bằng hai mô hình: Mô hình đánh giá tác động của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực drate_longr đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân di_pri
DI_PRI = -1.062687968*DRATE_LONGR(-1) - 1.373099517*DRATE_LONGR(-3) - 1.507964529*ECM1(-1). Kết quả của mô hình cho thấy hệ số của biến drate_longr(-1) có dấu âm phù hợp với lý thuyết kinh tế. Nhìn vào mô hình thấy rằng mức thay đổi lãi suất dài hạn thực tác động đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân có độ trễ thời gian, cụ thể mô hình này là trễ 1 năm và 3 năm. Mặt khác, hệ số của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 1 năm là -1.062 có nghĩa là khi lãi suất thay đổi 1% thì làm cho tốc độ tăng đầu tư thay đổi 1.062%, mức độ tác động ngược chiều. Dường như, mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 3 năm tác động mạnh hơn mức thay đổi lãi suất dài hạn thực trễ 1 năm (1.37%).
R2=0.847 có nghĩa là mức thay đổi của lãi suất dài hạn thực giải thích khoảng 84.7% sự biến thiên của mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực tư nhân. Các kiểm định về chất lượng mô hình đều cho chúng ta kết quả mô hình này là một mô hình chấp nhận được. Tương tự chúng ta có mô hình đánh giá tác động của mức thay đổi lãi suất dài hạn thực drate_longr đến mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực Nhà nước di_gov DI_GOR = -1.641768056*DRATE_LONGR(-1) - 1.496818822*ECM2(-1)
Kết quả mô hình cũng có ý nghĩa về mặt kinh tế (lãi suất và đầu tư có quan hệ ngược chiều), mức tác động là 1.64%. Khả năng mức thay đổi lãi suất giải thích sự biến thiên của mức thay đổi tốc độ tăng đầu tư khu vực nhà nước khoảng 52%. Các kiểm định mô hình chấp nhận được. Qua kết quả nghiên cứu trên có thể thấy, nhìn chung, lãi suất có tác động ngược chiều với đầu tư, trong đó tác động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư nhân là nhạy cảm hơn đầu tư khu vực Nhà nước. Điều này là do, các doanh nghiệp của Nhà nước được tiếp cận nhiều nguồn vốn ngoài ngân hàng hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân và được hưởng nhiều nguồn vốn ưu đãi với mức lãi suất thấp hơn so với khu vực tư nhân (kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về nguồn vốn của các DNNN năm 2004-2004, cho kết quả là nguồn vốn vay ngân hàng chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp). Mặt khác, trong giai đoạn này, khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn giai đoạn trước (số doanh nghiệp khu vực tư nhân tăng từ 35.004 DN năm 2000 lên 84.003 DN năm 2004 và 123.392 năm 2006, số doanh nghiệp Nhà nước giảm từ mức 5.759 DN năm 2000 xuống còn 4.596 DN năm 2004 và 3.720 năm 2006). Việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của khu vực tư nhân ngày càng thuận lợi hơn. Theo số liệu thống kê của NHNN, dư nợ cho vay doanh nghiệp tư nhân tăng từ mức 55,3% tổng dư nợ năm 2000 lên 68,7% tổng dư nợ năm 2007. Chính sách tiền tệ đã có tác động tương đối rõ nét đến hành vi tiết kiệm, tiêu dùng của cá nhân và đầu tư của doanh nghiệp và phù hợp với lý thuyết, qua đó sẽ có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Vì vậy, việc điều tiết lãi suất của NHNN để tác động đến tăng trưởng và lạm phát trong giai đoạn hội nhập này là rất cần thiết.
2.2. Lãi suất ảnh hưởng tới quy mô đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. Lộ trình tự do hóa lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất huy động vốn của Viêt Nam chia thành nhiều giai đoạn ,mỗi sự thay đổi của chính sách lãi suất đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế.Xét quá trình ảnh hưởng của lãi suất tới đầu tư phát triển của Việt Nam từ năm 2000 tới nay. Bắt đầu từ tháng 8/2000 trần lãi suất bắt đầu bị phá bỏ thay thế trần lãi suất bằng một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố .Từ lúc này các ngân hàng bắt đầu ấn định mức lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng.Chính sách này có nhiều tích cực nhưng đối tượng nông dân và doanh nghiệp các vùng nông thôn khó tiếp cận được với những khoản vốn vay của ngân hàng bỏi việc đến các vùng nông thôn đòi hỏi chi phí cao trong khi các tổ chức tín dụng lại bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay. Do vậy các doanh nghiệp các hộ nông dân phải đi vay với lãi suất gấp 4 lần lãi suất ngân hàng. Do vậy quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa thực sự được mở rộng. Đến tháng 6/2002 lãi suất được tự do hóa hoàn toàn trên cơ sở các ngân hàng tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố chỉ có tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia tăng đồng thời lãi suất cho vay của các ngân hàng đã ngay lập tức nhích lên. Các ngân hàng thương mại tùy vào mức độ rủi ro của các dự án vay vốn mà ấn định các mức lãi suất khác nhau. Hoạt động lãi suất phản ánh cung cầu vốn vay trên thi trường. Các đối tượng vay như hộ gia đình, nông dân hay các doanh nghiệp nhỏ không còn bị loại ra khỏi cuộc chơi như trước đây. Trong nền kinh tế nhiều đối tượng hơn được tiếp cận với quy mô vốn của các ngân hàng, do đó quy mô vốn vay của nền kinh tế được mở rộng. Sau khi ngân hàng nhà nước áp dụng tự do hóa lãi suất ta xem xét sự tác động của lãi suất đến đầu tư giai đoạn 2000-2007.
Bảng 5
|Năm |2000 |2001 |2002 |2003 |2004 |2005 |2006 |2007 |
|Lãi suất cơ bản (%/năm)| | | | | | | | |
| |7.2 |8.0 |7.2 |7.5 |7.5 |7.8 |8.25 |8.3 |
|VĐT/GDP | | | | | | | | |
|(%) |34.2 |35.4 |37.2 |37.8 |38.6 |40 |41 |44 |
|Tốc độ tăng trưởng (%).| | | | | | | | |
| |6.7 |6.9 |7.08 |7.24 |7.79 |8.4 |8.17 |8.5 |
Tại cuộc họp báo diễn ngày 13/10/2008 .Theo kết quả nghiên cứu và dự báo của viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (CIEM) .tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam quy I/2008 là 7.43%,dự báo tốc độ tăng trưởng trong năm nay là 6.7%,cho biết lãi suât cơ bản trong năm nay là 14%, tỷ lệ (VĐT/GDP) là 41.6 %. Qua bảng trên ta nhận thấy một xu hướng rõ nét là khi lãi suât cơ bản giảm, tỷ trọng VĐT/GDP sẽ tăng .Năm 2002 lãi suất cơ bản giảm 0.8% so với 2001 đây là một nguyên nhân kích thích tăng tỷ lệ đầu tư từ 35.4% năm 2001 đến 37.2% năm 2002. Quy mô thu nhập hay những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng có tác dụng kích thích cầu đầu tư. Và trong điều kiện nước ta hiện nay khi nhu cầu đầu tư phát triển đang gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ VĐT/GDP tăng nhanh hay chậm lại và thông thường quy mô đầu tư xét trong một giai đoạn cho ta kết quả tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo thông số lạm phát năm 2003 là 3%, theo các nhà kinh tế thì với mức lãi suất như vậy nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào tình trạng thiểu phát. Từ năm 1999 -2003 bình quân tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6.54% ,CPI là 1.44% .CPI/GDP=0.22 lần ,lạm phát thấp đến mức thiểu phát tăng trưởng kinh tế ở mức độ thấp.Nhưng tăng trưởng GDP vẫn đạt 7.24% cao nhất từ năm 1996 là do nhà nứơc đã kích cầu tiêu dùng đúng hướng, chính sách hạ lãi suất từ năm 2002 đã phát huy tác dụng ở giai đoạn này. Từ giữa năm 2004 đến nay cùng xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của các ngân hàng trong nước không ngừng tăng. Từ năm 2005 đến nay ngân hàng nhà nước đã 3 lần tăng một số lãi suất chủ đạo là lãi súât tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu, 2 lần tăng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam.Theo số liêụ của ngân hàng nhà nước, trong năm 2005, lãi suất huy động VNĐ tăng 0.6-1.2%/năm, lãi suất cho vay VNĐ tăng 0.6 % /năm, lãi suất huy động bằng USD tămg 1.2-2.5%/năm và lãi suất cho vay bằng USD tăng 0.7-1.5%/năm so với cuối năm 2004. Trong những tháng cuối năm 2006 lãi suất lãi suất tiền gửi bằng VNĐ của dân cư kỳ hạn 12 tháng lên tới 8.25% đối với NHTM và 8.7% đối với NHCP, lãi suất tiền gửi bằmg USD tăng mạnh và đạt mức xấp xỉ 5% /năm. Lãi suất năm 2007 chính thức khởi tranh giữa các ngân hàng. Mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Lãi suất thi nhau “phá rào”, Nhiều ngân hàng thương mại đã “phá rào” lãi suất thỏa thuận, bỏ qua nỗ lực “dàn xếp” của các bên thời gian qua. Sau đó với lỗ lực ổn định lãi suất của các ngân hàng, vào tháng 8 lãi suất cơ bản VND tiếp tục ở mức 8,25%/năm. Ngày 31/7, Ngân hàng Nhà nước thông báo lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam đựơc áp dụng từ ngày 1/8 tiếp tục duy trì ở mức 8,25%/năm. Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 6,5%/năm và lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm. Như vậy, các mức lãi suất bằng đồng Việt Nam đã được Ngân hàng Nhà nước duy trì ổn định kể từ tháng 12/2005. Tình trạng lãi suất ngân hàng liên tiếp tăng cao đã khiến các doanh nghiêp và các nhà đầu tư co cụm sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn này nền kinh tế đang phát triển theo chiều rộng, nên lợi nhuận /vốn của doanh nghiêp không cao do đó khi lãi suất tăng thì chi phí đầu vào doanh nghiệp cũng tăng cao ,giá thành sản phẩm ngày càng cao trong khi việc tăng giá bán trong bối cảnh lạm phát cao là rất khó khăn. Do vậy điều tất yếu là các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đặc biệt ở Việt Nam, trong điều kiện lãi suất tăng, vốn ngân hàng sẽ dồn vào các doanh nghiệp lớn, dự án lớn khu vực doanh nghiệp nhà nước (thường là hiệu quả thấp). Kết quả là các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng khó tiếp cận vốn ngân hàng hơn, hiệu quả tối đa hoá đầu tư bị giảm sút. Lạm phát 8,4% trong 7 tháng đầu năm ở Việt Nam là cao so mức trung bình của thế giới và khu vực (2,5%-3,5%). Trong năm 2006 thị trường BĐS lại đang đóng băng, vàng trong cơn bão giá và đồmg USD không ổn định đã khiến các nhà đầu tư chuyển hướng sang kinh doanh chứng khoán,đó cũng là nguyên nhân gián tiếp khiến thị trường chứng khoán “sốt mạnh” trong những năm 2006 và 2007. Năm 2008 lãi suất ngân hàng lại tiếp tục bắt đầu cuộc đua mới.
Trước thực trạng lạm phát tăng cao, Chính phủ đã có những biện pháp tài chính, tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, như: cắt giảm chi tiêu công, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu bắt buộc của Ngân hàng nhà nước, khống chế tỷ lệ cho vay, đầu tư chứng khoán, khống chế tăng trưởng tín dụg ở mức 30%, đặc biệt NHNN đã 3 lần liên tiếp tăng lãi suất cơ bản trong nửa đầu năm 2008.
Bảng 6
Điều hành lãi suất của NHNN trong 6 tháng đầu năm
|Đợt |1/2/2008 |19/5/2008 |11/6/2008 |
|Lãi suất cơ bản % |7.5 |11 |13 |
|Lãi suất chiết khấu % |8.755 |12 |14 |
|Lãi suất cho vay % |6 |13 |15 |
Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Với việc qui định lãi suất cơ bản là 14%/năm, được coi là tín hiệu tốt để hút tiền từ lưu thông về, cũng chính là để hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng. Theo đó, lãi suất huy động của các NHTM cũng được điều chỉnh tăng lên đến 17% rồi 19% áp dụng cho các kỳ hạn khác nhau, thậm chí có ngân hàng huy động lãi suất qua đêm lên đến hơn 12%. Các đợt điều chỉnh lãi suất này đã có tín hiệu tích cực từ nhiều phía. Đối với các NHTM, lãi suất tăng cao, có điều kiện để huy động vốn của dân cư, giải quyết khó khăn về thanh khoản. Tính đến 31.5.2008, tổng huy động tiền gửi bằng VND của hệ thống ngân hàng tăng 19.3% so với cuối năm 2007. Đối với dân cư, lãi suất tăng cao cũng giúp người dân phần nào bù đắp được lạm phát, đảm bảo lãi suất thực ở mức xấp xỉ tỷ lệ lạm phát, tránh tình trạng lãi suất thực quá âm. Tuy nhiên, khi lãi suất huy động của ngân hàng tăng cao, tất yếu dẫn đến lãi suất cho vay các doanh nghiệp sẽ tăng lên. Nhưng trong ngắn hạn, khó khăn này là không thể tránh khỏi để đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát. Về dài hạn, khi chi phí vốn tăng, buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực tìm kiếm các dự án khả thi có khả năng sinh lời cao, khi đó tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí. Một điểm đáng chú ý trong thị trường tiền tệ tháng 5 và 6 là lãi suất thay đổi theo tuần có xu hướng tăng. Có thể nói là các NTM đua nhau tăng lãi suất về mức tỷ lệ kèm theo các khuyến mại như thưởng vật chất hoặc quay số trúng thưởng, rút trước hạn vẫn hưởng nguyên lãi theo kỳ hạn tháng hoặc tuần.
Hình 8
Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng 6 tháng đầu năm
[pic]
Nguồn: www.sbv.gov.vn Lãi suất cho vay VND cũng tăng mạnh, tuy nhiên, mức độ biến động của lãi suất cho vay không mạnh như lãi suất huy động. Mức cho vay ngắn hạn phổ biến ở mức 11-13.5% trong tháng 12 năm 2007 đã lên đến 21%/năm trong tháng 6 năm 2008. Một số ngân hàng đã tự ý đưa thêm một loạt các loại phí như phí mua hồ sơ, phí thẩm định, phí giải ngân v.v. làm cho lãi suất thực cho vay lên đến 25% thậm chí 28%. Trước tình thế đó, ngày 12/5/2-2008 NHNN đã ra quyết định khống chế về mức cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố cùng thời kỳ. Sự gia tăng của lãi suất cho vay, ngòai yếu tố tác động của sự gai tăng lãi suất đầu vào, còn chịu tác động không nhỏ của nhu cầu vay vốn cao. Đã nhiều tháng qua,lãi suất tiền gửi tăng mạnh cũng đã kéo việc tăng lãi suất cho vay, hơn nữa việc vay được tiền cũng khó khăn. Điều này đã tác động trực tiếp đến hệ thống các DN đang khát vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh. Theo khảo sát của VCCI, việc tiếp cận vốn của DN được phân bổ như sau: ngân hàng 74%, các quỹ đầu tư 14,89%; TTCK 4,26%. Dù là kênh tiếp cận vốn chủ yếu song tiếp cận ngân hàng là một khó khăn lớn của DN khi mà lãi suất cho vay đã tăng cao đến 21%/năm nhưng số DN thỏa mãn được nhu cầu vay vốn cũng rất ít (10,5%). Mặc dù hơn 1/2 DN có doanh thu và mức tăng trưởng của doanh thu tốt hơn năm 2007 song thực tế chỉ có khoảng 1/4 có lợi nhuận và mức tăng trưởng về lợi nhuận tốt hơn. DN nhỏ và vừa là đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất từ tình hình lãi suất tăng cao như hiện nay. Trong bối cảnh lạm phát, giá vật liệu tăng cao..., nhiều DN đã phải tìm kiếm các giải pháp "thắt lưng buộc bụng”. Đại diện một DN than thở: Cách đây 1 năm, LS chỉ 0,7% - 0,8%/tháng, bây giờ, LS lên đến 1,8%/tháng nhưng nhiều khi vẫn không thể vay được. Đại diện này cho rằng với LS cao như hiện nay thì DN khó tránh khỏi lỗ. Đại diện này khẳng định: Nếu muốn có lãi, chắc DN phải tăng giá bán lên 40%-50% và sẽ chẳng có khách hàng nào chấp nhận mức tăng này.Theo nhận định của các DN thì trong giai đoạn trước mắt, DN chỉ có cách là tự cứu mình,"thắt lưng buộc bụng" bằng cách tiết kiệm triệt để chi phí sản xuất, chi phí quản lý... là những giải pháp tức thời. Bên cạnh đó, cùng với việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, thì nhiều DN cũng phải tranh thủ các đối tác lớn nước ngoài để được trả chậm với mức LS thấp hơn so với lãi vay của NH...Bên cạnh đó, một số DN và nhà thầu đã thực hiện huy động vốn từ tiền nhàn rỗi của CB-CNV và gia đình. Cụ thể với biện pháp này, DN sẽ trả lãi cho người có tiền cao hơn LS gửi, nhưng cũng tận dụng được mức LS phải trả thấp hơn NH. Nhiều Cty kinh doanh địa ốc hoặc kêu gọi các nhà đầu tư thứ cấp góp vốn, hoặc cũng áp dụng hình thức kêu gọi vốn vay tương tự...Việc lãi suất vay vốn NH tăng lên từ khoảng 1,01% lên 1,67% tuy hợp lý nhưng đấy sẽ là chi phí rất lớn đối với các DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Mức lãi suất này khiến các DN phải khó khăn lắm mới có thể có được lợi nhuận sau khi trừ hết các chi phí. Dưới biến động của tình hình lãi suất 6 tháng đầu năm, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quí I/2008 theo giá thực tế ước tính đạt 105,1 nghìn tỷ đồng, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm 2007, bao gồm vốn khu vực Nhà nước là 47,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 45,5% tổng vốn và tăng 14,6%; khu vực ngoài Nhà nước là 30,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 29%, tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 26,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,5% và tăng 24,1%.
Bảng 7: Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quí I/2008
| |Nghìn tỷ đồng |Cơ cấu (%) |Quí I/2008 so với |
| | | |quí I/2007(%) |
|TỔNG SỐ |105,1 |100,0 |115,9 |
|Khu vực Nhà nước |47,8 |45,5 |114,6 |
|Khu vực ngoài Nhà nước |30,5 |29,0 |111,3 |
|Kvực có vốn ĐT trực tiếp NN |26,8 |25,5 |124,1 |
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tính đến thời điểm giữa tháng 7 ngân hàng đã bắt đầu rục rịch hạ lãi suất cho vay. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mới đây là nhà băng đầu tiên công bố giảm lãi suất cho vay. BIDV cho hay, lãi suất áp dụng với các khách hàng của nhà băng này giảm chung 0,2% cho toàn bộ khách hàng. Riêng các doanh nghiệp trong các ngành hàng được ưu tiên về vốn, sẽ được giảm lãi suất 0,6% cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp này gồm các công ty thực hiện dự án trọng điểm của Chính phủ, các ngành xăng dầu, xi măng, điện, sắt thép, doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng thiết yếu như dược phẩm, lương thực, thực phẩm, nước sạch, vận tải. Theo ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch BIDV, ngân hàng này hạ lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn của doanh nghiệp và khuyến khích các ngành hàng trong ưu tiên phát triển, các ngành tạo ra cân đối vĩ mô lớn cũng như tăng trưởng của nền kinh tế. Qua phân tích trên ta thấy, lãi suất trong nền kinh tế là công cụ kinh tế khá quan trong, làm sao lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết. Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực chất của tự do hóa: Tự do hóa lãi suất là việc trao cho thị trường vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân hàng trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
2. Thực trạng mối quan hệ giữa TSLN VĐT với quy mô VĐT
2.1 Tỉ suất lợi nhuận tác động đến cầu vốn đầu tư TỈ suất lợi nhuận vốn đầu tư có quan hệ tỉ lệ thuận tới đầu tư. Nếu ngành nào có tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư cao thì các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào nhiều, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư càng nhiều thì qui mô vốn đầu tư càng lớn. Như vay, tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư chỉ cho ta biết nên đầu tư vào đâu, qui mô vốn đầu tư như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, rất khó xác định được tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư .Do vậy chúng ta sẽ sủ dụng chỉ số ICOR để phân tích mối quan hệ này.
ICOR càng thấp phản ánh hiệu quả của một đơn vị vốn đầu tư càng cao. Do vậy ta có thể thông qua ICOR để đánh giá hiệu quả đầu tư ở tầm vĩ mô
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo. Do đó cơ cấu vốn đầu tư của thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ lệ cao nhất, năm 2000 là 59.1%, năm 2001 là 59.8%, năm 2002 là 57.3%......Tuy nhiên cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế đã có sự dich chuyển đáng kể. Kinh tế nhà nhà nước có sự gia tăng về vốn đầu tư từ 151183 tỉ năm 2000 lên 512700 năm 2007,qui mô vốn đầu tư đã tăng hơn 3 lần sau 8 năm. Tỉ lệ vốn đầu tư của thành phần kinh tế nhà nước giảm sút từ 59.8% năm 2001 còn 39.9% năm 2007. Trong khi đó thành phần kinh tế ngoại nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có qui mô vốn tăng đáng kể. Hai khu vực này có qui mô vốn đầu tư tăng khoảng 6 lần. Tỉ trọng trong qui mô vốn đầu tư tăng đáng kể, thành phần kinh tế ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỉ trọng lần lượt là 35.3% và 24.8%. Tại sao lại có sự thay đổi cơ cấu qui mô vốn đầu tư như vậy? Bởi vì các thành phần kinh tế có tỉ suất lợi nhuận khác nhau khiến cho nhà đầu tư quyết định đầu tư vào chỗ nào có tỉ suất lợi nhuận cao hơn. Theo Báo cáo kiểm toán 2005 về kết quả hoạt động năm 2004 thì hầu hết các tổng công ty, tập đoàn kinh tế của Nhà nước có tỷ suất lợi nhuận chỉ là 0,5%.Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư thấp, nhiều doanh nghiệp đã có tỉ suất lợi nhuận âm trong giai đoạn 2000-2007. Trong khí đó khu vực kinh tế tư nhân và vốn đầu tư nước ngoài có tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư trung bình đạt 20% ( mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư ( nhà đầu tư sẽ tăng cường đầu tư làm cho qui mô vốn đầu tư tăng. Vì vậy sẽ làm chuyển dich cơ cấu vốn đầu tư.
2. Thực trạng mối quan hệ giữa lái suất vốn vay, TSLN VĐT với quy mô VĐT ở Việt Nam
Ở phần lý luận đã phân tích mối quan hệ của 3 nhân tố và cho ta kết luận khi lãi suất tiềm vay tăng ( hiệu quả biên của vốn cũng phải tăng để cân bằng) làm giảm cầu về đầu tư, lương vốn đầu tư giảm xuống tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư lại tăng lên và ngược lại
Ta có: r ( ( I ( ( RR (
Nếu xem xét sự thay đổi tư nguyên nhân tỉ suất lợi nhuậnta có kết luận sau:
Nếu tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư làm cho cầu đầu tư tăng làm tăng lãi suất và ngược lại
Ta có sơ đồ sau:RR( ( I ( ( r ( RR( ( I( ( r(
Vậy thực tế mối quan hệ đó ở Việt Nam trong những năm gần đây diễn ra như nào? Chúng ta xem xét dựa trên số liệu thống kê tư năm 2000
Bảng 10
|Năm |LS cơ bản (%/năm) |% tăng giảm LSCB |Hệ số ICOR |% tăng giảm ICOR |Tốc độ tăng vốn đầu |
| | | | | |tư theo giá thực tế|
| | | | | |(%) |
|2000 |7.2 |- |4,9 |- |- |
|2001 |8 |-11 |5,0 |2 |12,8 |
|2002 |7,2 |-10 |5,25 |5 |16,8 |
|2003 |7,5 |4,17 |5,22 |-0,57 |16,3 |
|2004 |7,5 |0 |4,95 |-5,17 |18,7 |
|2005 |7,8 |4 |4,54 |-8,28 |17,9 |
|2006 |8.25 |5.7 |4.88 |7.49 |17.9 |
|2007 |8.3 |0.61 |4.9 |0.41 |28.9 |
Nguồn niên giám thống kê năm 2007 và tính toán
- Xu hướng biến động lượng VĐT được thể hiên qua tốc độ tăng vốn đầu tư(ở đay vốn đầu tư được tính theo giá thực tế.
* Phân tích số liệu:
Năm 2002 lãi suất cơ bản giảm 10% từ đó có thể kết luận lãi suất tiền vay cũng giảm. Việc giảm lãi suất này làm tăng nhu cầu đầu tư thực tế là tốc độ tăng VĐT theo giá thực tế cao hơn năm trước 16.8% năm 2002 cao hơn mức 12.8% năm 2001. Đầu tư tăng làm tỉ suất lợi nhuận giảm , hiệu quả biên của vốn giảm được biểu hiện thành hệ số ICOR cao hơn năm trước 5.25. - Năm 2003 LSCB tăng 4.17% lãi suất làm tăng tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư (hệ số ICOR giảm nhẹ 5.22). Tốc độ tăng vốn đầu tư giăm tuy nhiên nhu cầu đầu tư vẫn tăng. Năm 2004: Là thời kì lạm phát cao, tỉ lệ 9,5% trong khi lãi suất cơ bản không tăng làm phát sinh kì vọng về tỉ suất lợi nhuận tăng. Lợi nhuận kì vọng tăng, nó như một cú huých đẩy đường cầu đầu tư sang phải. Tốc độ tăng vốn thời kì này đạt 18,7% cao nhất trong 5 năm. Vốn tăng kéo theo lãi suất tăng.hiệu quả sủ dụng vốn tăng , Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư tăng thể hiện ở hệ số ICOR giảm khá mạnh(4.95%) Năm 2005: Vẫn chịu ảnh hưởng của năm 2004 là lãi suất tăng, lãi suất cơ bản 4%. Trong năm này lãi suất cho vay từ khoảng 15-18%/năm so với mức năm 2004 là 13,18% rõ ràng vẫn chịu tác động của dư âm lạm phất năm 2004. Lãi suất tăng sẽ làm cho nhu cầu đầu tư giảm xuống (Tốc độ tăng vốn đầu tư về kì này là 17.9%) đến điểm lãi suất cân bằng vơí hiệu quả biên của vốn. Hiệu quả vốn đầu tư được nâng cao htông qua hệ số ICOR giảm xuống(4.54). Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư tăng -Năm 2006:Lãi suất cơ bản tăng mạnh (5.7%) nhưng tốc độ tăng quy mô vốn đầu tư hầu như không đổi (17.9%) so với năm 2005. Do luật doanh nghiệp sửa đổi và có hiệu lực năm 2006, tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân (quy mô vốn đầu tư tăng mạnh.Khi đó quy mô vốn lại tiếp tục tác động trở lại tới lãi suất làm lãi suất tiếp tục tăng. Hiệu quả biên của vốn giảm mạnh thể hiện qua chỉ số ICOR tăng mạnh (4.88). -Năm 2007:Do lãi suất tăng nhẹ nhưng tốc độ tăng vốn đầu tư tăng mạnh do vẫn theo xu thế năm 2006. Mặt khác trong giai đoạn này, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Vỉệt Nam tăng mạnh. Tý suất lợi nhuận giảm nhẹ thể hiện qua chỉ số ICOR tăng nhẹ( k= 4.9). .
Chương III VẬN HÀNH CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ QUA CÔNG CỤ LÃI SUẤT TỶ SUẤT LỢI NHUẬN Ở VIỆT NAM
I.GIẢI PHÁP VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT 1. Điều chỉnh lãi suất hợp lý để thúc đẩy đầu tư. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang có những bất ổn. Tăng trưởng tín dụng và cung tiền gia tăng trong giai đoạn 2001 – 2006 và tăng đột biến năm 2007. Lạm phát ổn định ở mức một chữ số giai đoạn 2001 – 2006 nhưng tăng lên 12,6% năm 2007. Riêng 5 tháng đầu năm 2008 lạm phát đã tăng 15,96%. Trong 6 tháng đầu năm nay tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại đã chậm lại khoảng 20% và thấp xa so với năm 2007. Trong khi đó huy động tiền gửi tính đến cuối tháng 5 năm 2008 đã tăng 19.5% so với cuối năm 2007. Đây là những chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu hạn chế tăng trưởng tín dụng kìm chế lạm phát của chính phủ. Tuy nhiên lãi suất tăng cao là một khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp. Thực tế các NHTM và các nhà làm chính sách biết rất rõ điều này nhưng đó là biện pháp cần thiết trong ngân hàng để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên khi lạm phát được kiểm soát ở một mức độ nhất định tất yếu phải điều chỉnh lãi suất và các công cụ khác cho phù hợp. Vì thế yêu cầu lớn nhất lúc này là tín dụng và lãi suất của NHNN cần được điều hành hợp lý để vừa kiểm soát được lạm phát vừa tạo điều kiện cho kinh tế phát triển vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Cần điều hành theo hướng ổn định và giảm dần khi lạm phát được kiềm chế. Những tác động lớn nhất từ tăng lãi suất là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp tăng, đẩy giá bán sản phẩm tăng, làm ảnh hưởng đến số đông người có thu nhập thấp, nhưng không hạn chế tiêu dùng của người có thu nhập cao. Trong khi đó, doanh nghiệp vốn có quy mô nhỏ và yếu về tài chính, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng. Vì vậy khi lãi suất tăng cao doanh nghiệp không tiếp cận được vốn ngân hàng để sản xuất. Bên cạnh đó lãi suất tăng cao làm giảm đầu tư tư nhân, tăng chi phí vay mượn, làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế xấu đi, vĩ mô tiếp tục bất ổn, đời sống người lao động bị ảnh hưởng. Để giảm lạm phát nhà nước đã điều chỉnh mức lãi suất cao. Khi lạm phát bước đầu được kìm chế thì cần giảm lãi suất để thúc đẩy đầu tư: Một là: giảm lãi suất huy động vốn Song như vậy thì khó thu hút được tiền gửi khách hàng. Bởi vì trong nhận thức của dư luận, của người gửi tiền là phải đảm bảo lãi suất thực dương, tức là lãi suất tiền gửi tại NHTM phải cao hơn chỉ số CPI. Nếu theo đúng nguyên lý như vậy thì đến tháng 7 năm 2008 đã là 19.78%/năm, lãi suất huy động vốn phải tối thiểu là 20%/năm. Nhưng thực tế hiện nay lãi suất huy động vốn bình quân chỉ có 17%-18.5%/năm, cao nhất cũng chỉ 19%/năm. Một bộ phận người có tiền vẫn chấp nhận gửi tiền vào NHTM. Như vậy theo quan niệm trên thì hiện nay lãi suất tiền gửi đang âm! Do đó hoàn toàn có thể giảm lãi suất huy động vốn trên cơ sở chia sẻ lợi ích giữa người gửi tiền, NHTM và người vay vốn trong điều kiện lạm phát hiện nay. NHTM rõ ràng hiện nay hầu như không có lãi là bao, tức là chấp nhận khoảng cách chênh lệch lãi suất tối thiểu, hoặc tạm thời không có lãi. Người vay vốn rõ ràng khó chấp nhận được mức lãi suất tới 20%/năm và cao hơn, vì hiếm có lĩnh vực kinh doanh nào có lợi nhuận lớn để trả lãi suất vay NHTM cao như vậy! Còn đối với người gửi tiền, cần đổi mới nhận thức về lãi suất thực dương. Đó là quan niệm này tồn tại từ trong thời kỳ bao cấp, giai đoạn bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế. Khi đó người ta thường so sánh sự mất giá của đồng tiền Việt Nam với giá vàng và đồng USD. Song đối với vàng hiện nay ít được sử dụng làm phương tiện thanh toán như cách đây 15-20 năm, còn đối với USD, trong một năm qua USD chỉ tăng có 1.36%. Đồng thời quan niệm về lãi suất thực dương còn phải gắn với tăng trưởng chung của nền kinh tế, của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Song hiện nay tăng trưởng kinh tế chỉ đạt khoảng 6.5-7.5%/năm, lợi nhuận sản xuất kinh doanh cũng khó có thể vượt mức bình quân trên 12%/năm. Do đó lãi suất tiền gửi không thể vượt quá lợi nhuận chung của nền kinh tế. Tại Trung Quốc, trong hơn một năm qua lãi suất tiền gửi nhân dân tệ luôn thấp hơn chỉ số lạm phát. Đến cuối tháng2 năm 2008 chỉ số CPI của Trung Quốc tăng 8.7% so với cùng kỳ …tháng 4 năm 2008 là 8.5%, tháng 5-2008 là 7.7%và tháng 6-2008 là7.1%, nhưng lãi suất tiền gửi nhân dân tệ chỉ khoảng 5-6%/năm. Tín phiếu có kỳ hạn 3 năm và 5 năm do bộ tài chính nước này phát hành với lãi suất tương ứng lần lượt là 5.74% và 6.34%/năm, cao hơn lãi suất tiền gửi và thấp hơn lãi suất cho vay của NHTM. Bởi vậy giải pháp này cũng có tính khả thi cao trong điều kiện tốc độ tăng của CPI trong 2 tháng gần đây đã giảm dần; giá vàng và USD đã hạ nhiệt; đồng thời tùy thuộc và đồng thuận chung của các NHTM để không xẩy ra tình trạng NHTM này giảm NHTM kia vẫn giữ nguyên lãi suất huy động vốn. Hai là: tiết kiệm tối đa chi phí của ngân hàng thương mại Giải pháp này các NHTM đang thực hiện quyết liệt, nhưng chỉ có thể đến một giới hạn nhất định. Bởi vì không thể cắt giảm lương của cán bộ, nhân viên trong điều kiện giá tiêu dùng tăng cao. Ba là: ngân hàng nhà nước tăng thêm 1% mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc trả cho các ngân hàng thương mại Bốn là: giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Giải pháp này vướng phải một lo ngại là lại làm tăng trưởng tín dụng ở mức cao. Bởi vì tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộclà để hạn chế hệ số nhân tiền, thu hút tiền từ lưu thông về, gián tiếp can thiệp làm giảm sự mở rộng tín dụng của NHTM. Song với định hướng tăng trưởng dư nợ không quá 30% trong năm 2008; các NHTM ngừng cho vay chứng khoán và hạn chế cho vay bất động sản, hạn chế cho vay tiêu dùng; NHNN tăng cường kiểm tra và chính các NHTM cũng kiềm chế tín dụng để bảo đảm an toàn. Nên lo ngại giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoàn toàn có thể được mà không lo ngại sẽ dẫn tới tăng trưởng tín dụng. Nên đây là giải pháp có tính khả thi nhất, cho phép giảm đáng kể chi phí cho NHTM, trên cơ sở đó giảm lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng.
2. phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Hiệu quả của các tổ chức tín dụng cũng là hiệu quả từ sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả của nền kinh tế vì vậy cần: Củng cố hoàn thiện và đổi mới hệ thống ngân hàng: Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng theo xu hướng tăng quy mô các ngân hàng quốc doanh ngang tầm với các ngân hàng trong khu vực. Xây dựng một cơ chế liên kết, phối kết hợp các chủ thể tham gia vào thị trường tài chính – tiền tệ. Tạo cho ngân hàng trung ương một vị thế độc lập tương đối để đủ sức kiểm soát sự biến động liên tục của thị trường Chú trọng bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng đủ sức thực hiện nhiệm vụ. Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay lĩnh vực nghành có các sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao. Quan tâm phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có điều kiện, có khả năng, phát triển. Trong quản trị và điều hành lãi suất cần đảm bảo tính khoa học và thống nhất trong toàn hệ thống. Cần một ngân hàng trung ương đủ mạnh, với một quyết định thay đổi lãi suất của mình, Ngân hàng Trung ương Mỹ hay Châu Âu đã tác động đến cả nền kinh tế thế giới. Ngân hàng Trung ương Singapore, Thái Lan hay Malaysia tác động ngay lên nền kinh tế của họ, thậm chí có thể ảnh hưởng sang nước láng giềng. Mục tiêu quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Việc chạy đua lãi suất của họ là điều đương nhiên. Những cuộc đua như vậy không thể tránh được bằng thỏa thuận lãi suất. Hơn nữa, làm như vậy sẽ vi phạm luật cạnh tranh. Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho mỗi khi họ đưa ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế. Một ngân hàng trung ương mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ là một trong những nền tảng cơ bản nhưng cũng là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
3. Giải pháp về cơ chế điều hành lãi suất Đối với Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào một số nhiệm vụ: Kịp thời cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng để tăng khả năng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 và tạo điều kiện cho việc phát triển ổn định của nền kinh tế những năm tiếp theo. Tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ cụ thể, phù hợp, trước hết đối với các tổ chức tín dụng nhỏ, chưa đáp ứng đủ các quy định vay tái cấp vốn, tái chiết khấu bình thường, nhằm bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động hệ thống ngân hàng một cách an toàn và bền vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tăng lãi suất huy động vốn của các tổ chức tín dụng này Chủ động điều hành tỷ giá hối đoái với biên độ và bước đi hợp lý, bảo đảm tạo được điều kiện cho thị trường ngoại tệ vận hành ổn định, ngăn ngừa hoạt động đầu cơ ngoại tệ; thường xuyên theo dõi và có những biện pháp quản lý phù hợp các giao dịch ngoại hối, các luồng vốn vào, ra; kịp thời hỗ trợ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu những vật tư, hàng hóa thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Thực hiện cơ chế cạnh tranh hoàn hảo đối với các ngân hàng thương mại, trên nền tảng lãi suất định hướng của ngân hàng trung ương. Các ngân hàng thương mại căn cứ vào diễn biến thực tế của thị trường mà định mức lãi suất phù hợp cho mình. Việc tự do hóa cạnh tranh sẽ dẫn đến sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại song đó là quy luật tất yếu của cơ chế thị trường. Ngoài ra chúng ta cũng phải có biện pháp để hạn chế độc quyền và khuyến khích tạo dựng được vấn đề đạo đức kinh doanh
II. GIẢI PHÁP TĂNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ, HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN.
1. Sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, là “hạt nhân” để thu hút các nguồn vốn khác cần tham gia đầu tư; yêu cầu đối với nguồn vốn này là phải đảm bảo tính công khai, minh bạch và hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước. Hiện nay vấn đề quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp đang trong tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu tập trung, quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh thấp. Cơ chế quản lý nhà nước đối với các DN chưa đồng bộ, chưa phù hợp với kinh tế thị trường, đặc biệt, chưa có sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng điều hành hoạt động kinh doanh của các DN; Việc quyết định đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại DN được thực hiện bởi nhiều cấp; Cơ chế quản lý phần vốn nhà nước tại DN đã chuyển đổi sở hữu vẫn chậm thay đổi và chưa theo kịp với quy định của Luật Doanh nghiệp; Chưa có tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp để thống nhất quản lý vốn nhà nước đầu tư vào các loại hình DN. Tại Hà Nội, một số dự án được hưởng lượng vốn NSNN lớn, nhưng quá trình thực hiện không đạt hiệu quả. Trong đó phải kể đến dự án Nhà máy xử lý nước thải thuộc Khu đô thị Bắc Thăng Long-Vân Trì (Đông Anh), mặc dù đã hoàn thành, bàn giao từ tháng 10-2005, với giá trị 65,55 tỷ đồng và 1.255 triệu yên Nhật, nhưng hiện chưa thể vận hành?!. Dự án Hạ tầng kỹ thuật xung quanh Hồ Tây theo kế hoạch phải hoàn thành năm 2005, song đến nay một số hạng mục chưa thể triển khai; dự án xây dựng trường Đại học Kinh tế quốc dân, khi thiết kế không tuân thủ tiêu chuẩn xây dựng, gây lãng phí NSNN hàng tỷ đồng… Về thu ngân sách Nhà nước, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các chính sách thuế hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, giảm mức huy động để khuyến khích phát triển sản xuất và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trước hết trong năm 2007 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân. Hoàn thiện quy trình, thủ tục thuế, hải quan phù hợp với quy định của WTO và yêu cầu đơn giản, minh bạch nhằm cải thiện môi trường đầu tư ,kinh doanh. Về chi ngân sách Nhà nước, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước và tăng cường hiệu quả chi, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống đường sá, cầu cống; bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước, thực thi các giải pháp tài chính hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hệ thống điện, nước, xử lý môi trường...; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo phổ cập tiểu học và trung học, đào tạo nghề; đầu tư cho nghiên cứu khoa học – công nghệ; đầu tư phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn. Để quản lý nguồn NSNN và tăng hiệu quả các dự án đầu tư từ vốn ngân sách cần thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Với những dự án đầu tư công cộng không thực sự cấp bách và hiệu quả đầu tư còn nghi ngờ, nên cắt bỏ, hoặc tạm hoãn thời hạn thực hiện. loại bỏ các dự án đầu tư không hiệu quả, giãn tiến độ các dự án chưa khởi công hoặc mới khởi công. Giải pháp quan trọng là kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công, bớt tối đa những khoản chi không hợp lý Cần siết chặt kỷ cương, pháp luật và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý đầu tư xây dựng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Tăng cường giám sát thông qua các cơ quan dân cử trong quá trình đầu tư xây dựng... Kiến nghị phương án quản lý nguồn vốn ODA, nên quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan quản lý chủ đầu tư. Khi xảy ra sai phạm, cần có biện pháp “mạnh” để răn đe Thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vì vậy, nguồn vốn này cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Việc giám sát chặt chẽ hoạt động đầu tư từ vốn ngân sách là trách nhiệm của các cơ quan chức năng nhằm bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia. Một số lĩnh vực mà khu vực ngoài nhà nước có thể làm được nên để cho các doanh nghiệp cạnh tranh đầu tư tạo hiệu quả kinh tế cao hơn mặt khác tiết kiệm được NSNN để phục vụ các mục đích khác. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập, đòi hỏi phải tạo sân chơi bình đẳng giữa các DN thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, xóa bỏ mọi hình thức bao cấp của Nhà nước, đảm bảo việc ra quyết định kinh doanh dựa trên hiệu quả kinh tế; Đảm bảo việc tuân thủ với các đạo luật mới ban hành, trong đó thể hiện tư tưởng cải cách triệt để, tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư…
2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA Để thu hút nguồn vốn vay ODA đòi hỏi phải tăng cường tương ứng khả năng sử dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Không bố trí hoặc hạn chế bố trí nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực, địa phương giải ngân chậm, sử dụng vốn vay nước ngoài không hiệu quả, đồng thời, tăng mức phân bổ nguồn vốn vay ODA cho những ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và bảo đảm tiến độ thực hiện dự án. Đồng bộ hoá khung pháp lý, nghiên cứu và chỉnh sửa các quy định và nghị định liên quan đến sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA. Tạo sự hài hoà và hoàn chỉnh các thủ tục hành chính giữa các nhà tài trợ và về phía chính phủ Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA, xây dựng các quy chuẩn và hướng tới chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá các ban quản lý dự án. Các nghành, các địa phương rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình quản lý để trình chính phủ, thủ tướng chính phủ ban hành các cơ chế chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Cần thực hiện triệt để việc chống tham nhũng. Bên cạnh Luật chống tham nhũng, Nhà nước vẫn cần phải xây dựng một cơ chế, một thể chế chặt chẽ. Chẳng hạn, để thực hiện cơ chế công khai minh bạch, Chính phủ cần phải quy định rõ thế nào là thông tin mật và không mật, để công khai cho người dân giám sát. Nếu không có quy định này thì con số nào cũng được cho là mật, sẽ là một ngáng trở lớn cho việc công khai minh bạch.
3. Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể xem đây là một kênh tạo lập vốn mới nhiều tiềm năng, được chi phối bởi Luật đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này có tác động tích cực đến đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do vậy, trước hết cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn này: Xác định rõ lộ trình, bước đi, lĩnh vực đầu tư, cơ chế ưu đãi, quy định các lệ phí và phí dịch vụ, điều kiện cung ứng điện nước, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin… đồng thời hoàn thiện các thể chế có liên quan trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thương mại. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp nói chung và luật đầu tư nói riêng một cách đồng bộ nhằm tạo cơ chế thông thoáng và môi trường đầu tư hấp dẫn. Rà soát thực trạng của các dự án trên từng địa bàn để phân loại và có chính sách hỗ trợ phù hợp. Các dự án trọng điểm, có tác động đến địa phương và khu vực sẽ được ưu tiên hỗ trợ trước. Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thiực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản của đầu tư Từng bước hoàn thiện, chấn chỉnh lại bộ máy quản lý và các tổ chức xét duyệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đúng theo luật pháp của Việt Nam, vừa tạo điều kiện cho việc quản lý dự án một cách chặt chẽ, có hiệu quả kinh tế cao. Chủ động chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lý kinh tế - tài chính trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động phát triển nhưng phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động này nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
KẾT LUẬN. Qua bài tập nghiên cứu về mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, chúng ta thấy: đây là mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Lãi suất (lãi suất thực tế) là yếu tố hai mặt tác động đến quy mô vốn đầu tư. Lãi suất cao khuyến khích tiết kiệm, hạn chế dòng vốn chảy ra nước ngoài nhưng lại làm hạn chế quy mô vốn vay cho đầu tư. Nếu lãi suất thấp làm giảm tiết kiệm, dòng vốn chảy ra nước ngoài tăng, dẫn đến không đủ cho nhu cầu về quy mô vốn. Quy mô vốn vay cũng tác động lại lãi suất, cầu vốn tăng làm lãi suất tăng và ngược lại. Tỷ suất lợi nhuận là yếu tố có tính chất dẫn dắt đầu tư vào lĩnh vực nào,quy mô bao nhiêu và có lên tăng quy mô hay không. Nhưng khi tăng quy mô vốn đầu tư thì các nhà đầu tư phải đối mặt với vấn đề hiệu quả biên của vốn giảm dần. Do vậy, các nhà đầu tư chỉ quyết định tiếp tục đầu tư ( tăng quy mô vốn) khi hiệu quả biên của vốn lớn hơn lãi suất tiền vay. Thực trạng đầu tư ở việt nam trong giai đoạn nghiên cứu có nhiều thành tựu nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, hiệu quả đầu tư đem lại chưa phù hợp với nguồn lực hiện có. Một trong những nguyên nhân này xuất phát từ yếu tố chúng ta chưa vận dụng phù hợp mối quan hệ trên vào công cuộc đầu tư. Vì vậy, để đầu tư đạt hiệu quả cao, nhà nước cần có những biện pháp kinh tế vĩ mô phù hợp, sử dụng công cụ lãi suất, tỷ suất lợi nhuận để điều chỉnh hoạt động đầu tư. Qua đó, đưa đầu tư phát triển thật sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế, góp phần đưa việt nam tiến nhanh trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình kinh tế đầu tư_ PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt; TS.Từ Quang Phương. Nhà xuất bản đại học Kinh Tế Quốc Dân năm 2007.
2. Giáo trình Kinh tế phát triển_ GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng. NXB Lao động_Xã hội_2006.
3.Bản tin số 12_4.2008(Bộ KH&ĐT): Đánh giá so sánh tình hình phát triển kinh tế_ xã hội năm 2007 của việt Nam và khu vực.
4.Giáo trình: Lịch sử các học thuyết kinh tế _PGS.TS.Trần Bình Trọng.Nhà xuất bản Thống Kê năm 2004.
5.Giáo trình: Kinh tế vĩ mô_PGS.TS.Nguyễn Văn Công. NXB Lao động_ Xã hội_2006.
6.Giáo trình: Tài chính tiền tệ.
7.Tạp chí: Kinh tế và dự báo ( Bộ KH & ĐT)
8.Tap chí: Thị trường tài chính.
9.Tap chí:Kinh tế và phát triển.
10.Tạp chí:Nghiên cứu kinh tế.
11.Kinh tế học_ Paul Samuelson.
12.Một số trang web điện tử: http://www.neu.edu.vn. http://www.mpi.gov.vn http://www.gso.gov.vn http://www.kinhtehoc.com.vn http://www.vnexpress.vn. http://www.worldbank.org.vn.
-----------------------