Free Essay

Stock

In:

Submitted By negi
Words 7321
Pages 30
Mục lục
1. CÁC PHƯƠNG THỨC TIẾP CẬN ĐẾN ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU 2 1.1. TẠI SAO VÀ KHI NÀO SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DÒNG TIẾN CHIẾT KHẤU. 3 1.2. TẠI SAO VÀ KHI NÀO SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ TƯƠNG ĐỐI. 4
2. KỸ THUẬT ĐỊNH GIÁ DÒNG TIỀN CHIẾT KHẤU 4 2.1. Mô hình chiết khấu dòng cổ tức (Dividend Discount Model – DDM) 4 2.1.1. Nắm giữ một năm: 6 2.1.2. Nắm giữ nhiều năm: 7 2.1.3. Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM): 7 2.1.4. Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) và Các công ty tăng trưởng 8 2.1.5. Định giá các công ty có các giai đoạn tăng trưởng cao đặc biệt tạm thời 9
3. GIÁ TRỊ HIỆN TẠI CỦA DÒNG TIỀN HOẠT ĐỘNG THUẦN
(PRESENT VALUE OF OPERATING FREE CASH FLOW) 10
4. GIÁ TRỊ HIỆN TẠI CỦA DÒNG TIỀN THUẦN ĐỐI VỚI VỐN CSH (PRESENT VALUE OF FREE CASH FLOW TO EQUITY) 12

KỸ THUẬT ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU

[pic]

CÁC PHƯƠNG THỨC TIẾP CẬN ĐẾN ĐỊNH GIÁ CỔ PHIẾU

Do tính chất phức tạp và tầm quan trọng của việc định giá cổ phiếu, rất nhiều kỹ thuật định giá khác nhau đã được áp dụng để thực hiện công việc này. Các kỹ thuật này có thể thuộc một trong hai nhóm tiếp cận cơ bản: (1) các kỹ thuật định giá theo dòng tiền chiết khấu (Discounted Cash Flow Valuation Techniques), theo đó giá trị của một cổ phiếu được ước tính dựa trên giá trị hiện tại của một trong số các dòng tiền nào đó, bao gồm dòng cổ tức (dividends), dòng tiền hoạt động (operating cash flow), và dòng tiền thuần đối vốn chủ sở hữu (free cash flow to equity); và (2) các kỹ thuật định giá tương đối (Relative Valuation Techniques), theo đó giá trị của một cổ phiếu được ước tính dựa trên giá trị hiện tại của nó so với một trong các biến kinh tế nào đó (economic variables) được xem là có ý nghĩa đối với quá trình định giá, chẳng hạn như thu nhập, dòng tiền, giá trị sổ sách, hay doanh số.

Một điểm quan trọng là cả hai phương pháp tiếp cận và tất cả các kỹ thuật định giá có một số yếu tố chung. Trước hết, tất cả các kỹ thuật đều bị tác động đáng kể bởi suất sinh lời kỳ vọng (required rate of return) của nhà đầu tư đối với một cổ phiếu nào đó vì suất sinh lời này sẽ là tỷ suất chiết khấu hay sẽ là một thành phần quan trọng của tỷ suất chiết khấu. Thứ hai, tất cả các phương pháp tiếp cận định giá cổ phiếu đều bị tác động bởi mức tăng trưởng dự kiến của các biến kinh tế (estimated growth rate of variables) sử dụng trong các kỹ thuật định giá – ví dụ, cổ tức, thu nhập, dòng tiền, hay doanh số). Tất cả chúng ta đều thừa nhận rằng các biến kinh tế quan trọng đều phải được dự báo. Do vậy, các chuyên viên phân tích khác nhau sử dụng cùng một kỹ thuật định giá sẽ đưa ra các dự báo khác nhau về giá trị của một cổ phiếu vì họ có những dự báo khác nhau về các biến kinh tế đầu vào quan trọng. Nói một cách khác, các nhà đầu tư đều nhận biết được các mô hình định giá, nhưng các giá trị đầu vào sử dụng cho các mô hình đó sẽ tạo nên sự khác biệt.

Phần trình bày dưới đây mô tả các mô hình định giá cụ thể và những điểm mạnh và điểm yếu mang tính lý thuyết và thực tiễn của từng mô hình. Cần chú ý rằng hai phương pháp tiếp cận định giá được trình bày bổ sung cho nhau, không phải cạnh tranh hay loại trừ, do vậy, chúng ta cần phải tìm hiểu và sử dụng cả hai phương pháp tiếp cận đó.

1 TẠI SAO VÀ KHI NÀO SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ DÒNG TIẾN CHIẾT KHẤU.

Các kỹ thuật định giá theo dòng tiền chiết khấu là những lựa chọn hiển nhiên vì các kỹ thuật này chính là một ví dụ điển hình về cách mà chúng ta định nghĩa về giá trị - đó là, giá trị hiện tại của các dòng tiền dự kiến. Sự khác biệt lớn nhất giữa các phương pháp dòng tiền chiết khấu nằm ở cách mà chúng ta xác định dòng tiền – đó là, dòng tiền nào được sử dụng.

Dòng tiền rõ ràng và dễ hiểu nhất chính là dòng cổ tức, vì những dòng tiền này chạy thẳng vào túi của nhà đầu tư, chính vì vậy, chúng ta cũng dễ đồng ý rằng nên dùng chi phí vốn CSH (cost of equity) làm tỷ suất chiết khấu. Tuy nhiên, kỹ thuật định giá chiết khấu dòng cổ tức khó áp dụng đối với những công ty không chi trả cổ tức trong suốt giai đoạn tăng trưởng cao, hay những công ty hiện chi trả cổ tức rất hạn chế do có được những dự án đầu tư hứa hẹn đem lại suất lợi nhuận cao. Trong khi đó, kỹ thuật định giá này rất hữu ích khi tiến hành định giá cổ phiếu của một công ty đã phát triển ổn định, bền vững và chi trả cổ tức đều đặn.

Cách phân loại dòng tiền thứ hai là dòng tiền hoạt động thuần (operating free cash flow), thông thường được mô tả là dòng tiền sau khi trừ đi các chi phí trực tiếp (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, chi phí chung) và sau khi trừ đi dòng tiền cần thiết để bổ sung nhu cầu vốn lưu động và nhu cầu đầu tư tài sản cố định cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, nhưng trước bất kỳ khoản chi trả nào cho những nhà cung cấp vốn. Vì chúng ta đang nói về các dòng tiền dành cho tất cả những nhà cung cấp vốn, tỷ suất chiết khấu được sử dụng là chi phí vốn bình quân (weighted average cost of capital – WACC) của doanh nghiệp. Đây là một mô hình định giá hữu ích khi so sánh các công ty khác nhau có các cấu trúc vốn đa dạng vì chúng ta xác định giá trị của toàn bộ công ty và rồi trừ đi giá trị các khoản nợ để đi đến giá trị phần vốn CSH của công ty.

Dòng tiền thứ ba là dòng tiền thuần đối với chủ sở hữu (free cash flow to equity), cách xác định dòng tiền này cũng tương tư như dòng tiền hoạt động thuần (operating free cash flow) được mô tả ở trên, nhưng chỉ khác là dòng tiền sau khi đã chi trả hết cho các chủ nợ. Điều này có nghĩa là đây là dòng tiền còn lại cho tất cả cổ đông phổ thông. Chính vì vậy, tỷ suất chiết khấu sẽ là chi phí vốn CSH (cost of equity).

Một khó khăn đối với các mô hình định giá theo dòng tiền chiết khấu là chúng rất lệ thuộc vào hai dữ liệu đầu vào quan trọng: (1) tỷ lệ tăng trưởng của các dòng tiền (cả tỷ lệ tăng trưởng và thời gian tăng trưởng) và (2) ước tính tỷ suất chiết khấu. Như chúng ta sẽ thấy trong một số trường hợp, một sự thay đổi nhỏ đối với một trong hai hay cả hai giá trị trên có thể ảnh hưởng rất lớn đối với giá trị cổ phiếu được tính sử dụng các mô hình này. Như đã đề cập ở trên, mọi người có thể hiểu và sử dụng các mô hình tương tự nhau, nhưng các giá trị đầu vào mới chính là yếu tố quan trọng.

2 TẠI SAO VÀ KHI NÀO SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ TƯƠNG ĐỐI.

Như đã nói trên, một trong những vấn đề tiềm ẩn của các mô hình định giá theo dòng tiền chiết khấu là có thể đưa đến một giá trị nội tại (intrinsic value) của một cổ phiếu quá cao hay quá thấp so với giá thị trường hiện hành do chúng ta điều chỉnh các biến đầu vào. Một lợi thế của các phương pháp định giá tương đối là chúng cung cấp thông tin về việc thị trường hiện tại đang định giá một cổ phiếu như thế nào ở những cấp độ khác nhau – tổng thị trường, các ngành khác nhau, giữa các cổ phiếu trong cùng một ngành.

Mặt tích cực là phương pháp định giá tương đối đem lại cho chúng ta thông tin về việc thị trường hiện đang định giá các cổ phiếu như thế nào. Mặt trái của những phương pháp này là chúng chỉ cung cấp thông tin về việc định giá hiện tại, mà không đem lại sự định hướng về việc liệu giá hiện tại của các cổ phiếu có phù hợp hay không – có nghĩa là, giá cổ phiếu tại bất kỳ một thời điểm nào cũng có thể quá cao hoặc quá thấp.

Chính vì vậy, để áp dụng các kỹ thuật định giá tương đối một cách phù hợp, chúng ta cần cân nhắc hai điều kiện sau:

i. Có một nhóm các công ty tương đồng có thể so sánh với nhau – có nghĩa là, nhiều công ty trong cùng một ngành, có quy mô tương đương, và có độ rủi ro (hy vọng là) tương đương. ii. Tổng thị trường và ngành mà công ty đang hoạt động không rơi vào hai thái cực của giá, nghĩa là không phải là đang được định giá quá cao và hoặc quá thấp.

KỸ THUẬT ĐỊNH GIÁ DÒNG TIỀN CHIẾT KHẤU

Tất cả các kỹ thuật định giá theo dòng tiền chiết khấu đều dựa trên một mô hình định giá cơ bản – giá trị của một tài sản là giá trị hiện tại của các dòng tiền dự kiến trong tương lại theo công thức sau:

[pic]

Trong đó: Vj = giá Cổ phiếu j n = vòng đời tài sản CFt = dòng tiền năm t k = tỷ suất chiết khấu (tương đương với suất sinh lời kỳ vọng của nhà đầu tư, được xác định bởi mức độ rủi ro của dòng tiền tạo ra bởi Cổ phiếu j)

Như được đề cập ở trên, công thức tổng quát trên sẽ được biến đổi khác đi tùy vào dòng tiền nào được sử dụng để định giá. Chúng ta bắt đầu một cách chi tiết với một mô hình định giá quen thuộc sử dụng dòng cổ tức – Mô hình chiết khấu dòng cổ tức (Dividend Discount Model – DDM)

1 Mô hình chiết khấu dòng cổ tức (Dividend Discount Model – DDM)

Mô hình chiết khấu dòng cổ tức giả định rằng giá trị của một cổ phiếu phổ thông là giá trị hiện tại của tất cả các dòng cổ tức trong tương lại, theo công thức sau:

[pic]

Trong đó:

Vj = giá Cổ phiếu j Dt = cổ tức năm t k = tỷ suất chiết khấu

Có một câu hỏi rõ ràng được đặt ra là: Điều gì xảy ra khi cổ phiếu đó không được nắm giữ đến vô hạn? Việc bán cổ phiếu đó vào cuối năm 2 sẽ cho chúng ta công thức điều chỉnh như sau:

[pic]

Giá của Cổ phiếu j tương đương với giá trị hiện tại của hai khoản cổ tức năm 1 và 2, cộng với giá trị hiện tại của của giá bán (SP) vào cuối năm 2. Giá bán dự kiến của Cổ phiếu j vào cuối năm 2 (SPj2) đơn giản chỉ là giá trị hiện tại của tất cả các dòng cổ tức còn lại, được xác định theo công thức sau:

[pic]

Còn những cổ phiếu không chia cổ tức thì sao? Một lần nữa, ý tưởng vẫn không có gì thay đổi, ngoại trừ cổ tức của những năm đầu là bằng 0. Điều đáng chú ý là, chúng ta kỳ vọng vào một thời điểm nào đó trong tương lai công ty sẽ bắt đầu chia cổ tức. Nếu các nhà đầu tư thiếu một kỳ vọng như thế, sẽ chẳng có ai mua cổ phiếu đó cả và giá của nó nên là zero. Một công ty có cổ phiếu không chia cổ tức đang tái đầu tư vốn của mình vào những dự án có khả năng sinh lời cao hơn so với mức sinh lời mà các nhà đầu tư có được nếu tự mình tái đầu tư cổ tức nếu được chia. Do vậy, thu nhập và dòng cổ tức sẽ lớn hơn và tăng trưởng nhanh hơn trong tương lai. Nếu điều đó xảy ra, chúng ta áp dụng mô hình DDM như sau:

[pic]

Trong đó:

D1 = 0; D2 = 0

Nhà đầu tư mong đợi khi công ty chia cổ tức vào năm 3, đó sẽ là khoản cổ tức ban đầu rất lớn và cổ tức của những năm sau sẽ tăng trưởng nhanh hơn cổ tức của một cổ phiếu tương tư vốn đã chi cổ tức ngay từ đầu. Chúng ta sẽ áp dụng mô hình này đối với một số trường hợp có thời gian nắm giữ khác nhau để xem nó hoạt động như thế nào.

1 Nắm giữ một năm:

Giả sử một nhà đầu tư muốn mua một cổ phiếu, nắm giữ trong một năm, rồi bán cổ phiếu đó đi. Để xác định giá của cổ phiếu đó, nghĩa là xác định giá mà nhà đầu tư sẳn sàng trả cho cổ phiếu đó – dùng mô hình DDM, chúng ta phải ước tính cổ tức sẽ được nhận trong thời gian nắm giữ, giá bán dự kiến vào cuối thời gian nắm giữ và suất sinh lời kỳ vọng của nhà đầu tư.

Để ước tính cổ tức trong nắm tới, ta điều chỉnh mức cổ tức hiện tại theo những kỳ vọng liên quan đến sự thay đổi mức cổ tức trong thời gian nắm giữ. Giả sử công ty mà chúng ta đang phân tích có EPS năm vừa qua là $2.5 và trả cổ tức $1/cổ phiếu. Giả định thêm rằng công ty sẽ giữ mức chi cổ tức khá ổn định là 40%. Các nhà phân tích tài chính trên thị trường chứng khoán thống nhất với nhau rằng công ty sẽ đạt EPS ở mức $2.75 trong năm tới và vì thế sẽ nâng mức cổ tức lên $1.1/cổ phiếu.

Giá bán cổ phiếu này là bao nhiêu sau một năm sẽ là một thông số rất quan trọng. Chúng ta có thể ước tính gia bán này theo một trong ba cách sau đây:

1) Áp dụng mô hình chiết khấu dòng cổ tức, theo đó, chúng ta ước tính những dòng cổ tức cụ thể trong nhiều năm trong tương lai và tính giá bán cổ phiếu dựa trên dòng cổ tức này; hoặc

2) Áp dụng mô hình bội số của thu nhập (earnings multiplier model), theo đó, chúng ta nhân EPS dự kiến PE dự kiến (forward P/E) để tìm giá bán dự kiến; hoặc

3) Áp dụng mô hình suất sinh lời cổ tức (dividend yield), theo đó, chúng ta ước tính EPS trong tương lai của công ty và tỷ lệ chi trả cổ tức để ước tính cổ tức dự kiến được chi tra vào ngày bán. Với mức cổ tức đã được ước tính, cùng với việc ước tính suất sinh lời cổ tức, chúng ta có thể tính được giá bán dự kiến.

Với EPS và cổ tức dự kiến ở mức $2.75 và $1.1 như trên, áp dụng phương pháp (2) và (3), chúng ta tính giá bán dự kiến như sau:

PE dự kiến (forward PE) trong dài hạn của cổ phiếu này vào khoảng 12-16. Lấy mức trung bình 14, chúng ta có giá dự kiến như sau:

14 x $2.75 = $35.50

Suất sinh lời cổ tức (dividend yield) đối với các cổ phiếu trên thị trường trong dài hạn ở mức 1.5 – 4%. Lấy mức trung bình là 2.75% và cổ tức dự kiến là $1.1/cổ phiếu, ta có giá ước tính như sau:

[pic]

Mức trung bình của hai mức giá trên là $37.75, làm tròn là $38.

Thông qua các kỹ thuật xác định suất sinh lời kỳ vọng (không thuộc phạm vi của bài viết này), chúng ta ước tính được suất sinh lời kỳ vọng là 10%.

Tóm lại, chúng ta đã xác định cổ tức là $1.1 (sẽ được trả vào cuối năm), giá bán dự kiến vào cuối năm là $38 và suất sinh lời kỳ vọng là 10%, giá mà nhà đầu tư sẳn sàng trả dùng mô hình DDM là:

[pic]

2 Nắm giữ nhiều năm:

Nếu chúng ta dự kiến nắm giữ cổ phiếu đó trong nhiều năm và sau đó, bán nó đi, việc định giá sẽ khó khăn hơn. Chúng ta phải dự tính mức cổ tức được chi trả cho nhiều năm trong tương lai và dự kiến giá bán sau nhiều năm.

Việc ước tính dòng cổ tức trong tương lai chính xác hay không tùy thuộc vào hai dự báo quan trong:

1) Triển vọng tăng trưởng thu nhập của công ty vì thu nhập chính là nguồn chi trả cổ tức 2) Chính sách chi trả cổ tức của công ty (có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau)

Thông thường, các nhà đầu tư sẽ đưa ra hai giả định tương đối đơn giản: (1) Công ty có tốc độ tăng trưởng thu nhập đều hàng năm; và (2) công ty duy trì một tỷ lệ chi trả cổ tức cố định. Các công việc tính toán sẽ tương tự như phần trên đã đề cập.

3 Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM):

Chúng ta sẽ nghiên cứu mô hình chiết khấu dòng cổ tức kéo dài đến vô hạn trên cơ sở giả định các nhà đầu tư ước tính được dòng cổ tức kéo dài đến vô hạn. Để làm được việc này, chúng ta thống nhất với nhau một giả định quan trong: dòng cổ tức trong tương lai có một mức tăng trưởng cố định kéo dài trong vô hạn. Theo đó, mô hình sẽ được tổng quát như sau:

[pic]

Trong đó: Vj = giá Cổ phiếu j D0 = cổ tức năm hiện hành g = tốc độ tăng trưởng đều cổ tức k = suất sinh lời kỳ vọng đối với Cổ phiếu j n = số năm, giả định kéo dài đến vô hạn

Để đơn giản trong việc tính toán, chúng ta biến đổi công thức trên thành công thức rút gọn sau:

[pic]

Trong đó:

D1 = cổ tức được chia trong năm tới (D1 = D0 x(1+g) g = tốc độ tăng trưởng đều cổ tức k = suất sinh lời kỳ vọng đối với Cổ phiếu j
Như vậy, để sử dụng Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM), chúng ta cần ước tính (1) suất sinh lời kỳ vọng (k) và (2) tốc độ tăng trưởng cổ tức đều kỳ vọng (g).

Xem xét một ví dụ về một cổ phiếu hiện chi cổ tức $1/cổ phiếu (D0). Chúng ta tin tưởng rằng, trong dài hạn, thu nhập và cổ tức của công ty sẽ tăng trưởng ở mức 7% (g), điều này cho phép chúng ta xác định được cổ tức năm tới sẽ là $1.07 (D1). Trong dài hạn, chúng ta ước tính suất sinh lời không rủi ro danh nghĩa (nominal risk-free rate) sẽ ở mức 8% và mức bù rủi ro cho cổ phiếu mà chúng ta đang xem xét là 3%. Chúng ta thiết lập suất sinh lời kỳ vọng cho cổ phiếu này là 11% (k). Chúng ta có giá của cổ phiếu thông qua Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) như sau:

[pic]

Một sự thay đổi nhỏ trong các dự báo đầu vào sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến giá V, như chúng ta có thể thấy thông qua các ví dụ dưới đây:

1. g = 7%; k = 12% (Giả định tăng k)

[pic]

2. g = 8%; k = 11% (Giả định tăng g)

[pic]

Các ví dụ trên cho thấy, khi k hoặc g thay đổi chỉ 1%, giá cổ phiếu thay đổi rất đáng kể ($26.75 so với $36.00). Mối tương quan giữa (k-g) có vai trò quyết định đến việc xác định giá cổ phiếu là bao nhiêu.

4 Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) và Các công ty tăng trưởng

Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) có ba giả định sau đây:

1) Cổ tức tăng trưởng đều; 2) Tốc độ tăng trưởng đều sẽ tiếp tục trong vô hạn; 3) Suất sinh lời kỳ vọng (k) phải lớn hơn tốc độ tăng trưởng (g). Nếu không, kết quả mà mô hình này đem lại sẽ vô nghĩa vì mẫu số là một số âm.

Ba giả định trên sẽ có tác động như thế nào nếu chúng ta muốn dùng mô hình này để định giá cổ phiếu của những công ty tăng trưởng như Intel, Microsoft? Các công ty tăng trưởng là những công ty có những cơ hội và có những năng lực đạt được suất sinh lời trên vốn đầu tư (rate of return on invested capital - ROI) liên tục cao hơn suất sinh mong đợi của các công ty này. Chúng ta có thể vẫn còn nhớ rằng, ở góc độ của tài chính doanh nghiệp, suất sinh lời mong đợi của công ty chính là chi phí vốn bình quân của công ty (Weighted average cost of capital – WACC). Lấy Intel làm một ví dụ, Intel hiện có WACC là 12% nhưng hiện tại có thể đạt ROI lên đến 20%. Vì thế, Intel được coi là một công ty tăng trưởng. Để khai thác các cơ hội đầu tư tốt nổi bật, các công ty tăng trưởng thường giữ lại một tỷ lệ rất lớn trong thu nhập của mình để tái đầu tư và vì thế, thu nhập của những công ty này sẽ tăng trưởng cao hơn so với các công ty khác.

Sự tăng trưởng bền vững của một công là một hàm số giữa tỷ lệ lợi nhuận giữ lại và suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), theo đó, [pic]. Như vậy, chúng ta thấy tốc độ tăng trưởng thu nhập đối với công ty tăng trưởng không nhất quán với giả định của mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM).

Trước hết, mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) giả định cổ tức tăng trưởng với một tốc độ không đổi trong vô hạn. Giả định này hiếm khi đúng đối với những công ty hiện tăng trưởng trên mức trung bình. Như trong trường hợp của Intel, công ty có mức tăng trưởng thu nhập lớn hơn 20% trong nhiều năm. Và dĩ nhiên, cũng rất dễ hiểu khi nhận định rằng các công ty tăng trưởng không thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao như thế trong vô hạn vì các công ty này sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh mạnh từ các công ty khác nhảy vào kinh doanh trong cùng ngành với mình nhằm tranh thủ được suất sinh lời cao.

Thứ đến, trong các giai đoạn phát triển rất cao của mình, tốc độ tăng trưởng thu nhập có thể sẽ cao hơn suất sinh lời kỳ vọng. Không có một mối quan hệ hiển nhiên nào giữa tăng trưởng và rủi ro, một công ty tăng trưởng cao không nhất thiết là một công ty có độ rủi ro cao. Thực tế, một công ty tăng trưởng có tốc độ tăng trưởng liên tục cao có mức rủi ro thấp hơn các công ty tăng trưởng thấp có thu nhập không ổn định.

Tóm tại, một số công ty trải qua những giai đoạn tăng trưởng đặc biệt cao trong những giai đoạn thời gian nhất định. Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) không thể áp dụng để định giá các công ty tăng trưởng cao này vì các giai đoạn tăng trưởng cao là tạm thời và điều này không nhất quán với các giả định của mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM). Chúng ta phải điều chỉnh mô hình này khi áp dụng thẩm định cho các công ty tăng trưởng.

5 Định giá các công ty có các giai đoạn tăng trưởng cao đặc biệt tạm thời

Chúng ta đồng ý với nhau rằng, trong một nền kinh tế cạnh tranh tự do, thật vô lý khi mong đợi một công ty có tốc độ tăng trưởng liên tục cao hơn suất sinh lời mong đợi của nó, WACC, vì cạnh tranh sẽ xuất hiện trong ngành kinh doanh béo bở mà công ty đang hoạt động. Cạnh tranh sẽ làm giảm lợi nhuận biên của các dòng sản phẩm của công ty và vì thế sẽ làm giảm ROE và giảm tốc độ tăng trưởng. Do vậy, sau một vài năm tăng trưởng ngoạn mục – gọi là các giai đoạn tăng trưởng cao đặc biệt tạm thời, tốc độ tăng trưởng của công ty sẽ giảm. Sau cùng, tốc độ tăng trưởng của công ty kỳ vọng sẽ ổn định tại một mức không đổi – điều này sẽ phù hợp với các giả định của Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM).

Để xác định giá trị của một công ty có các giai đoạn tăng trưởng cao đặc biệt tạm thời, chúng ta phải kết hợp các mô hình trước với nhau. Khi phân tích những năm đầu tăng trưởng rất cao, chúng ta phân tích từng năm. Khi tốc độ tăng trưởng của công ty ổn định ở mức thấp hơn suất sinh lời kỳ vọng, chúng ta tính giá trị của công ty trong giai đoạn còn lại giả định công ty tăng trưởng đều sử dụng mô hình DDM, sau đó chiết khấu ngược giá trị này về hiện tại. Sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta xét ví dụ sau đây.

Công ty A có mức cổ tức hiện hành (D0) là $2/cổ phiếu. Tốc độ tăng trưởng cổ tức được dự báo như sau:

|Năm |Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức |
|1-3 |25% |
|4-6 |20% |
|7-9 |15% |
|10 trở đi |9% |

Suất sinh lời mong đợi đối với cổ phiếu này (chi phí vốn chủ sở hữu của công ty) là 14%. Chúng ta tính được giá của cổ phiếu này như sau:

[pic]

GIÁ TRỊ HIỆN TẠI CỦA DÒNG TIỀN HOẠT ĐỘNG THUẦN (PRESENT VALUE OF OPERATING FREE CASH FLOW)

Dòng tiền hoạt động thuần (Operating Free Cash Flow - OFCF) còn được gọi là dòng tiền tự do đối với toàn bộ công ty (free cash flow to firm – FCFF) – đây là dòng tiền còn lại dành cho tất cả những nhà cung cấp vốn cho toàn bộ công ty, cung cấp vốn CSH (equity) và cung cấp vốn nợ (debt) sau khi công ty đã chi trả tất cả các chi phí hoạt động (operating expenses), bao gồm cả thuế TNDN và sau khi dành ra những khoản tiền cần thiết để chi cho nhu cầu vốn lưu động và đầu tư tài sản cố định.

FCFF có thể được tính từ lợi nhuận ròng (Net income) như sau:

FCFF = NI + NCC + Int(1- Tax rate) – FCInv – WCInv

Trong đó: NI = Lợi nhuận ròng (Net income) NCC = Các chi phi phi tiền mặt, chẳng hạn như chi phí khấu hao (Noncash charges) Int = Chi phí lãi vay FCInv = Chi phí đầu tư cho tài sản cố định (Capital expenditures) WCInv = Chi phí cho vốn lưu động (Working capital expenditures)

Lý do chúng ta cộng ngược lại chi phí lãi vay là vì FCFF là dòng tiền còn lại dành cho tất cả những nhà cung cấp vốn cho công ty, trong đó có những nhà cung cấp vốn nợ. Để thuận tiện, chúng ta có thể tính FCFF thông qua dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (CFO) như sau:

FCFF = CFO + Int(1- Tax rate) – FCInv

Trong mô hình Giá trị hiện tại của dòng tiền hoạt động thuần (Present Value of Operating Free Cash Flow), chúng ta tính giá trị toàn bộ công ty, sau đó trừ đi giá trị của phần nợ để xác định giá trị phần vốn chủ sở hữu của công ty. Vì chúng ta chiết khấu toàn bộ dòng tiền hoạt động thuần của công ty nên dùng chi phí vốn bình quân của công ty (Weighted average cost of capital – WACC) là tỷ suất chiết khấu. Giá trị của toàn công ty được tính thông qua công thức sau:

[pic]

Trong đó:

Vj = giá trị của Công ty j n = số năm, giả định kéo dài đến vô hạn. OFCFt = dòng tiền hoạt động thuần của Công ty trong năm t WACCj = chi phí vốn bình quân của Công ty j

Cũng tương tư như khi nghiên cứu mô hình DDM, chúng ta cũng có thể hình dung là chúng ta đang phân tích một công ty hoạt động lâu đời, ổn định có các dòng tiền hoạt động thuần ổn định, tăng trưởng đều, chúng ta có thể áp dụng Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM), như sau:

[pic]

Trong đó:

OFCF1 = dòng tiền hoạt động thuần trong năm 1, tương đương OFCF0(1 + gOFCF) gOFCF = tốc độ tăng trưởng đều của dòng tiền hoạt động thuần trong dài hạn.

Ngược lại, giả sử công ty mà chúng ta đang xem xét sẽ trải qua nhiều giai đoạn tăng trưởng OFCF khác nhau, việc tính toán giá trị công ty được chia thành 3 hoặc 4 giai đoạn tăng trưởng khác nhau, như đã được mô tả trong mô hình chiết khấu dòng cổ tức trong các giai đoạn tăng trưởng cao đặc biệt tạm thời. Chúng ta có thể ước tính tỷ lệ tăng trưởng và giai đoạn tăng trưởng của mỗi thời kỳ tăng trưởng đặc biệt cao của công ty, chẳng hạn như:

|Năm |Tỷ lệ tăng trưởng OFCF |
|1-4 |20% |
|5-7 |16% |
|8-10 |12% |
|11 trở đi |7% |

Như vậy, các phép tính toán sẽ được thực hiện cho từng OFCF cụ thể của từng năm cho đến Năm 10 trên theo các tỷ lệ tăng trưởng khác nhau, sau đó chúng ta dùng mô hình tăng trưởng vô hạn (infinite growth model) khi tốc độ tăng trưởng đạt đến mức ổn định sau Năm 10. Nên nhớ rằng, sau khi tính được giá trị Vj, chúng ta phải trừ đi giá trị tất cả các khoản nợ và giá trị cổ phiếu ưu đãi để có được giá trị phần vốn cổ phần phổ thông.

GIÁ TRỊ HIỆN TẠI CỦA DÒNG TIỀN THUẦN ĐỐI VỚI VỐN CSH (PRESENT VALUE OF FREE CASH FLOW TO EQUITY)

Dòng tiền thuần đối với vốn CSH (Free Cash Flow to Equity – FCFE) là dòng tiền còn lại cho cổ đông phổ thông của công ty sau khi tất cả chi phí hoạt động và chi phí vay (lãi và gốc) đã được thanh toán và các khoản đầu tư cần thiết cho vốn lưu động và tài sản cố định đã đã được thực hiện đầy đủ. FCFE được tính như sau:

FCFE = CFO + FCInv + Net borrowing – Net debt repayment

Trong mô hình này, chúng ta nghiên cứu dòng tiền thuần đối với vốn CSH để tính giá trị phần vốn chủ của công ty, do vậy tỷ suất chiết khấu phù hợp sẽ là chi phí vốn chủ sở hữu (k), thay vì WACC. Công thức tính như sau:

[pic]

Trong đó: Vj = giá trị cổ phiếu (equity stock) của Công ty j n = số năm, giả định kéo dài đến vô hạn. FCFEt = dòng tiền thuần đối với vốn CSH của Công ty trong năm t kj = chi phí vốn chủ sở hữu của Công ty j

Một lần nữa, chúng ta có thể áp dụng mô hình tổng quát này tùy thuộc vào vị trí của nó so với vòng đời hoạt động. Nếu công ty được dự báo là sẽ trải qua giai đoạn tăng trưởng ổn định, chúng ta dùng mô hình tăng trưởng vô hạn (infinite growth model). Ngược lại, nếu công ty được dự báo sẽ trải qua những giai đoạn tăng trưởng đặc biệt cao trước khi đạt mức tăng trưởng ổn định, chúng ta nên dùng mô hình tăng trưởng nhiều giai đoạn như đã được trình bày ở trên.
KỸ THUẬT ĐỊNH GIÁ TƯƠNG ĐỐI

Tất cả các nhà đầu tư đều quan tâm đến câu hỏi về giá cổ phiếu. Suất sinh lời mà một nhà đầu tư có thể kỳ vọng khi mua một cổ phiếu tùy thuộc vào việc liệu cổ phiếu đó đang được định giá đúng, quá cao hay quá thấp tại mức giá mà anh ta mua. Phương pháp định giá tương đối sử dụng bội số giá (price multiples) là một trong những công cụ được sử dụng rộng rãi và dễ hiểu giúp trả lời câu hỏi của nhà đầu tư. Phương pháp tiếp cận ở đây là dựa vào ý tưởng cho rằng nếu hai cổ phiếu rất tương đồng nhau (chúng có cùng mức rủi ro, hai công ty có cùng lợi nhuận biên, cùng triển vọng phát triển...), cổ phiếu có bội số thấp hơn được coi là đang bị định giá thấp hơn so với cổ phiếu kia.

Cách tiếp cận phù hợp, cả về lý thuyết và thực tiễn, đối với các kỹ thuật định giá tương đối bao gồm hai vần đề trọng tâm sau đây:

1) Những lý do hay suy luận nào để chọn bội số giá (price multiple) phù hợp? Những nhược điểm của từng price multiple? 2) Từng price multiple được định nghĩa và tính như thế nào?

Giá/Thu nhập (Price/Earning Ratio – P/E)

Nhiều nhà đầu tư muốn ước tính giá trị của cổ phiếu thông qua mô hình bội số thu nhập (P/E). Như chúng ta đã biết, thu nhập mà nhà đầu tư cổ phiếu có quyền nhận chính là thu nhập ròng của công ty. Vì vậy, một cách để các nhà đầu tư ước tính giá trị cổ phiếu là quyết định xem họ sẳn sàng trả bao nhiêu $ cho một $ lợi nhuận dự kiến.

Lý do sử dụng P/E:

➢ Khả năng tạo ra thu nhập chính là động cơ chính của bất kỳ một khoản đầu tư nào. EPS, chính vì thế, thu hút sự quan tâm lớn nhất đối với cộng đồng phân tích cổ phiếu. ➢ P/E được thừa nhận và sử dụng rộng rãi bởi các nhà đầu tư

Nhược điểm của P/E:

➢ EPS có thể âm và P/E không có một ý nghĩa kinh tế nào khi có mẫu số âm. ➢ Thu nhập có thể rất biến động, khiến cho việc so sánh P/E qua các năm khác nhau hay giữa các công ty với nhau rất khó khăn và không có nhiều ý nghĩa. ➢ EPS có thể bị bóp méo bởi các công tác kế toán, khiến cho khả năng so sánh giữa các P/E bị tác động.

Công thức tính:

|P/E = |Giá thị trường hiện hành |
| |EPS dự kiến trong 12 tháng tới |

Như chúng ta đã biết, giá một cổ phiếu có thể được tính sử dụng Mô hình dòng cổ tức vô hạn (Infinite Period DDM) qua công thức sau:

[pic]

Nếu chia hai vế của công thức trên cho E1 (thu nhập dự kiến trong 12 tháng tới), kết quả sẽ là:

[pic]

Mô hình này cho thấy chỉ số P/E được xác định bởi: 1) Tỷ lệ chia cổ tức dự kiến 2) Suất sinh lời kỳ vọng đối với cổ phiếu 3) Tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dự kiến.

Xét ví dụ như sau: nếu chúng ta giả định một cổ phiếu có tỷ lệ chia cổ tức dự kiến là 50%, suất sinh lời kỳ vọng khi đầu tư vào cổ phiếu này là 12% và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức dự kiến là 8%, áp dụng công thức trên ta có thể tính P/E như sau:

D/E = 0.50; k = 0.12; g = 0.08
[pic]

Chú ý rằng, một sự thay đổi nhỏ đối với k hay g hay cả hai sẽ có tác động rất lớn đối với giá trị P/E tính theo công thức trên.

Sau khi ước tính P/E. Chúng ta ước tính E1 – dựa vào E0 và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và từ đó có thể ước tính được giá của cổ phiếu.

Xem xét ví dụ sau:
D/E = 0.50 k = 0.12 g = 0.09
E0 = $2.00

[pic]
[pic]
[pic]

Giá/Dòng tiền (Price/Cash flow ratio – P/CF)

Chỉ số P/CF càng ngày càng được sử dụng rộng rãi trong giới phân tích cổ phiếu xuất phát từ nguyên nhân là EPS có thể bị bóp méo do sự linh hoạt trong việc lựa chọn các nguyên tắc kế toán và các gian lận có thể có do ban lãnh đạo tạo ra vì mục đích cá nhân.

Lý do sử dụng P/CF:

➢ Dòng tiền ít có khẳ năng bị bóp méo bởi các quyết định của ban lãnh đạo. ➢ Vì thông thường, dòng tiền ổn định qua các năm hơn EPS, do đó P/CF thường ổn định hơn P/E. ➢ Dùng chỉ số P/CF (thay vì dùng P/E) có thể giải quyết được vấn đề khác biệt trong chất lượng EPS giữa các công ty.

Nhược điểm của P/CF:

➢ Chúng ta cộng EPS với các chi phí không bằng tiền (noncash charges) để xác định CFO trong quá trình tính P/CF. Chúng ta đã bỏ qua các yếu tố khác ảnh hưởng tới CFO, chẳng hạn như thay đổi vốn lưu động và các khoản điều chỉnh thu nhập khác.

Công thức tính:

[pic]

Trong đó:

P/CFj = chỉ số Giá/Dòng tiền của Công ty j Pt = giá cổ phiếu năm t CFt+1 = dòng tiền/cổ phiếu dự kiến của Công ty j

Giá/Giá trị sổ sách (Price/Book value ratio – P/BV)

Chỉ số P/BV được sử dụng rộng rãi trong giới phân tích đối với ngành ngân hàng. Giá trị sổ sách của một ngân hàng thường được coi là một dấu hiệu tốt về giá trị nội tại của ngân hàng vì hầu hết các tài sản của nó, như trái phiếu và các khoản cho vay thương mại, có giá trị tương đương với giá trị sổ sách. Không chỉ thế, P/BV cũng được ưu chuộng sử dụng bên ngoài ngành ngân hàng nhờ vào những ưu điểm của chỉ số này, như được trình bày dưới đây.

Lý do sử dụng P/BV:

➢ Vì BV là giá trị tích lũy trên bảng cân đối kế toán, cho nên BV thường lớn hơn 0 ngay cả khi EPS âm. Thông thường chúng ta dùng P/BV khi EPS âm. ➢ Vì BV thường ổn định hơn EPS, P/BV sẽ là một chỉ số tốt khi EPS quá biến động. ➢ Được xác định như giá trị tài sản ròng/cổ phiếu, BV/cổ phiếu rất phù hợp trong việc định giá những công ty có phần lớn tài sản có tính thanh khoản cao, như ngân hàng, công ty tài chính, bảo hiểm và các công ty đầu tư. ➢ BV thường được dùng để định giá các công ty được cho là không còn tiếp tục hoạt động.

Nhược điểm của P/BV:

➢ Không phù hợp để định giá cổ phiếu của các công ty dịch vụ, nơi mà tài sản vô hình (tài sản con người) còn quan trọng hơn bất kỳ tài sản hữu hình nào. ➢ Sự khác biệt trong các mô hình và chiến lược kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành có thể dẫn đến sự khác biệt trong các giá trị BV, do vậy P/BV sẽ không phải là một chỉ số tốt để so sánh các doanh nghiệp trong cùng ngành. ➢ Sự linh hoạt trong việc lựa chọn các nguyên tắc kế toán (expensing v.s capitalizing) dẫn đến sự khác biệt về giá trị tài sản, thậm chí chất lượng tài sản, được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán. Điều này khiến cho việc so sánh giữa các công ty với nhau sử dụng P/BV có thể gây nhầm lẫn.

Công thức tính:

[pic]

Trong đó: P/BVj = chỉ số Giá/Giá trị sổ sách của Công ty j Pt = giá cổ phiếu năm t BVt+1 = giá trị sổ sách ước tính vào cuối năm/cổ phiếu của Công ty j

Cách xác định BV:

• (Vốn chủ sở hữu) – (Giá trị phần vồn cổ phần ưu đãi) = Vốn cổ đông phổ thông. • Vốn cổ đông phổ thông / Số cổ phiếu phổ thông đang lưu hành = Giá trị sổ sách/cổ phiếu.

Giá/Doanh số (Price/Sales ratio – P/S)

Chỉ số Giá/Doanh số (Price/Sales ratio – P/S) được các chuyên viên phân tích sử dụng vì hai lý do. Thứ nhất, họ tin rằng tăng trưởng doanh thu mạnh và ổn định là yêu cầu đối với một công ty tăng trưởng. Thứ hai, so với tất cả các số liệu trên các báo cáo tài chính, thông tin về doanh số ít bị tác động của các mánh khóe gian lận. P/S rất khác biết giữa các công ty hoạt động trong các ngành với nhau, do vậy, P/S chỉ nên được sử dụng giữa các công ty trong cùng một ngành.

Lý do sử dụng P/S:

➢ Doanh số thường ít bị bóp méo hơn EPS hay BV. ➢ Doanh số là một số dương ngay cả khi EPS âm. ➢ Doanh số thường ổn định hơn EPS, do vậy P/S sẽ là một chỉ số tốt khi EPS quá biến động

Nhược điểm của P/S:

➢ Một công ty có thể tạo ra doanh thu và có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao nhưng không có được lợi nhuận, hay có thể có dòng tiền từ hoạt động kinh doanh âm. Để tồn tại lâu, công ty rốt cuộc phải tạo ra được lợi nhuận và tiền. ➢ Các tập quán ghi nhân doanh thu có thể gây khác biệt lớn đối với chỉ số doanh thu/cổ phiếu.

Công thức tính:

[pic]

Trong đó:

P/Sj = chỉ số Giá/Doanh thu của Công ty j Pt = giá cổ phiếu năm t St+1 = doanh thu ước tính/cổ phiếu của Công ty j

Similar Documents

Premium Essay

Stocks

...my micro/macro economy & Global Economy, and to find that I need more time to remember and understand alll these, it's depressing. My mental judgment tells me that you know what you are saying. Thank you. (That still I´m not) you don´t need to be a PhD in Economics (even as having one can help): you DO need a lot of PATIENCE, you need a discipline of reading everyday A LOT about global economic & political news (discarding the garbage from real-value information), you need a strategy and need to follow it, and you need to remember Peter Lynch´s famous phrase: ¨The main organ in Investing is not the brains: it´s the stomach!¨ . Good investing & best regards. Also, when the stock market drops due to some economic event, we often get dollar rallies. The reason is because everyone is selling thier stock and trading it for Cash. If everyone wants cash, cash...

Words: 466 - Pages: 2

Premium Essay

Stocks

...Basics:Stocks https://www.youtube.com/watch?v=Snsapamg8CU&list=PLFrErI4cWVHwU4ORy5i2TuzQBvxqVbelH Stocks A stock represents a partial ownership of a company. When you’re buying a stock, you’re buying a piece or a share of a company. By owning a share you get a small fraction of the company’s assets and have a claim on its future earnings. There are two ways in earning money from stock Stock appreciation – when a stock you own goes up in value, if the investor bought the stock in one price then the price went up the investor may sell the stock to another investor in a higher price. Therefore profiting from the added price value. Dividend – this is a periodic payment issued by some stocks. A dividend is like a payment of the company to the shareholders. The amount of money needed by a company to open and start operating is called a capital.  The owner then may need to loan from the bank for the capital needed but that only means that they would be in great debt. A company could issue a share of stock, by issuing stocks which is also called going public a company can raise money without going into debt, instead it sells shares of ownership and claims to future earning to investors. For examples there’s a typical investor who has some extra cash, and he’s looking for an investment that has better returns than a savings account and he is accepting the risk of investing on a stock. He then saw a company that is likely to grow and thinks that buying a share will be a great investment...

Words: 527 - Pages: 3

Premium Essay

Stock

...Bumpy Ride for Stocks Post-Fed By JONATHAN CHENG Stocks bounced in and out of positive territory and the dollar and the 10-year Treasury note fell after the Federal Reserve said it would buy $600 billion in longer-term securities by the middle of next year as part of its latest effort to prime the domestic economy. The Dow Jones Industrial Average was down 11 points, or 0.1%, to 11178, while the Standard & Poor's 500-stock index fell less than one point to 1193 and the Nasdaq Composite fell less than one point to 2533. [pic]Getty Images A financial professional looks over at his screen on the floor of the New York Stock Exchange in the middle of the trading day Nov. 3. The 10-year Treasury note sank, pushing the yield up to 2.634%. Gold and metals also fell as the Fed said it would maintain its existing policy of reinvesting principal payments from its securities holdings, and purchase a further $600 billion of longer-term Treasury securities by the end of the second quarter of 2011 at a pace of about $75 billion a month. The Fed said it would also "regularly review the pace of its securities purchases and the overall size of the asset-purchase program" as economic data flows in. Expectations of Fed easing had helped fuel a two-month surge on the stock market that has added 12% to the Dow. The Fed move was generally in line with market estimates, putting to rest the idea that the central bank would proceed on a more cautious step-by-step basis from the get-go. Anthony...

Words: 1172 - Pages: 5

Premium Essay

Stocks

...University: Date Submitted: Stock refers to instruments which signify ownership position in a corporation. Stocks stand for a claim on its proportional share in the profits and corporate assets. The stock market provides a stable and reliable method of gaining long term wealth. Ownership in a certain company is determined by the amount of shares a person holds divided by the number of shares outstanding. Most stocks used in companies provide voting rights allowing the shareholders have a proportional vote in making certain corporate decisions. It is only corporations that have stocks. Other types of companies, for example, limited partnership and sole proprietorship do not provide stocks. They take the form of preferred stock or common stock. Common stocks carry voting rights and can be applied in the decision of the corporate. On the other hand preferred stocks are different because they do not carry voting rights, but entitled to get a certain level of dividend payment before the divided can be provided to the shareholders. Just like any other forms of investments stocks have their own advantages and disadvantages. Stock trading represents one of the traditional methods of investing. It is the process by which stocks issued by companies are bought and sold to raise capital. The shareholder is entitled to the profit received by the company depending on the percentage his or her ownership. One of the main advantages of stocks is that they provide a great opportunity...

Words: 1573 - Pages: 7

Premium Essay

Stock

...Stock In America we have many different ways to pay people. So of those payments made to the people are made by cash, direct deposit, and most of the time checks. Another way a business can pay a person is with stock. Stock typically takes the form of shares of common stock (or voting shares). As a unit of ownership, common stock typically carries voting rights that can be exercised in corporate decisions. Preferred stock differs from common stock in that it typically does not carry voting rights but is legally entitled to receive a certain level of dividend payments before any dividends can be issued to other shareholders Stock even has created many jobs for the public such as stock clerk, stock broker, or you can even just pick it up as a hobby. Such as a lot of the everyday people who invest in the stock market every day. Sometimes with a few stock purchases a person could possibly double, triple, or quadruple their money they invested. If it wasn’t for stock in America our economy could be in a world of hurt. We have experienced sudden drops in stock called the stock market crash this happened twice once October 24, 1929 and again on October 19, 1987. It’s safe to say those were bad days for people who had a lot of many wrapped up in the stock market. The point I am trying to make is that stock is a vital part to keep America pushing forward in the business...

Words: 258 - Pages: 2

Premium Essay

Stock

.................................................................................7 What care should one take while investing?......................................................................8 What is meant by Interest?......................................................................................................8 What factors determine interest rates?...............................................................................8 What are various options available for investment?......................................................9 What are various Short-term financial options available for investment?.............9 What are various Long-term financial o ptions available for investment?............10 What is meant by a Stock Exchange?................................................................................11 What is an ‘Equity’/Share?......................................................................................................11 What is a ‘Debt Instrument’?.................................................................................................12 What is a Derivative?................................................................................................................12 What is a Mutual Fund?............................................................................................................12 What is an...

Words: 26421 - Pages: 106

Premium Essay

Stocks

...Advantages and Disadvantages of Preferred Stock Preferred stock offers several advantages and disadvantages when compare to common stock. It gains its name for the fact that it takes priority over common stock dividends are to be paid. In other words, preferred shareholders will also take precedence over common shareholders in the event a company is liquidated, however, they will not take precedence over creditors. From the investors’ perspective, a preferred stock is much less of a risk to own because the fixed dividend payments are guaranteed. In addition, the interest yield of preferred stocks is known for being less volatile than bonds. An important drawback of most preferred stocks is that they do not provide voting rights for the shareholder. In many ways, a preferred security works like a hybrid of a stock and bond. The face value of the asset is not going to fluctuate very much, thus leaving out the possibility for a windfall profit. In exchange, the holder of a preferred security will enjoy a steady stream of guaranteed dividend payments. It also provides the peace of mind knowing that your claims to assets will have priority if the company ever goes bankrupt. As an investment, I would choose common stock. Although the risk can be higher, there is a greater potential to experience a very large profit. If I was a significant shareholder in a company, I would choose common stock because it provides voting rights that can be used to vote on corporate affairs. This provides...

Words: 283 - Pages: 2

Premium Essay

Stocks

...Stocks Stocks October 10, 2015 XACC/291 Stocks Many people wonder why preferred stock is referred to as preferred and what makes it more attractive to investors. Preferred stock shares are "preferred" because they have the preference over the common shares to receive dividends and company assets if the business is liquidated. If a company does not have enough cash to pay dividends to both the preferred shares and the common shares, the preferred shareholders must be paid first. Any Company or Corporation can issue two types of stock: Common and preferred. Common stock is defined as a partial ownership in a company and these are the shares that usually are referred to when discussing a company’s stock. Investors will always look at common and preferred stocks in many different ways. If I had to choose between preferred and common stock I would have to go with preferred stock. A Preferred Stock is very much like a bond, but usually without an expiration date. Typically Investors would buy preferred stocks for their income potential, and common stocks for their growth. Common stock, on the other hand, generally has far more opportunity for appreciation than preferred stocks to. So it can be a difficult choice and of course will vary but it seems that preferred stock would always be the more beneficial since they do not fluctuate much like common stock would. In addition preferred stocks can have several versions, but with common stock there is only one version...

Words: 266 - Pages: 2

Premium Essay

Stock Portfolio

...theory stock returns have shown a noticeable volatility; thus if an investor desires to increase expected returns she must face a higher level of risk. Similarly, it has been proven that owing a group of financial securities can assist the investor to improve the return/risk tradeoff; that is owing eight stocks will produce an improved return/risk product over time versus owing one stock. Therefore, in evaluating a portfolio it is critically important to compare returns and risks involved; but in order to compare and evaluate returns and risks the investor has to know how to calculate these two important criteria (Markowitz, 1970). The return of a stock is based on its current price, its expected price plus distributed dividends. Therefore, if the current price of a stock is $40.00, its expected market price, let us say after a year, is increased to $50.00 and the distributed dividends amount to $5.00, its return is calculated as: [(Pt-Po) + DIV]/Po; Po is the current price of the stock, Pt is the price of the stock after one year and DIV are the distributed dividends per share. Substituting the above assumed numbers into the equation we have [($50-$40) +$5]/$40 = 0.25 or 25%. The risk of a stock is mainly measured by the standard deviation (Markowitz, 1987). In the case of a portfolio the expected return is the weighted average return of the returns of all the stocks included in the portfolio. The weight represents the amount that has been invested in each of the stocks included...

Words: 2918 - Pages: 12

Free Essay

Vietnam Stock

...APPLICATION OF ARIMA MODEL FOR TESTING “SERIAL INDEPENDENCE” OF STOCK PRICES AT THE HSEC Cao Hao Thi – Pham Phu – Pham Ngoc Thuy School of Industrial Management HoChiMinh City University of Technology ABSTRACT The paper is an attempt to test the “serial independence” of stock prices at HoChiMinh City Stock Exchange Center (HSEC) in Vietnam by applying the ARIMA model for preliminary assessment in terms of its market efficiency. From findings derived, it appears to be that: (a) ARIMA model could be applied for testing the serial independence of stock prices at the HSEC; (b) It is failed to prove that the HSEC market is not a weak-form efficient one; and (c) the “sheep flock effect” psychology is a factor dominated at the HSEC during the past two years. INTRODUCTION The first stock exchange floor of Vietnam named “HoChiMinh City Stock Exchange Center” (HSEC) was officially opened in HCM City on July 20, 2000. After two and half years of operation, there are now 21 listed stocks and 41 bonds traded on the HSEC with a total capitalization of about VND 5,200 billion. This would be seen as a first success on the way of setting-up SEC in Vietnam. VN-Index of the HSEC, however, has experienced a truly ups and downs movement and changed considerable during almost last two years. In the first section on July 28, 2000, VN-Index was 100 points and increased to a peak of 571.04 points in June 25, 2001 before sliding to lower 150 points in the first...

Words: 3203 - Pages: 13

Premium Essay

Buffer Stocks

...using a buffer stock scheme to stabilise the price of a commodity such as sugar or tin. A buffer stock is an intervention system that aims to limit the fluctuations of the price of a commodity. A commodity is a good that is traded, but usually refers to raw materials or semi-manufactured goods that are traded in bulk. In free markets agricultural prices fluctuates from year to year depending on the level of output affecting both the famers’ income and ability to make long term plans. In some cases this has led to setting up buffer stocks to ensure consistent supply and income to farmers. The authorities sell from the stock when harvests are poor and buy in stock when harvests are good. This prevents huge price increases in bad times and low famers’ incomes when harvests are good. One reason why using a buffer stock scheme to stabilise the price of a commodity such as sugar or tin is a good idea is that it prevents fluctuations in the price of a commodity. This is because when the output of a commodity increases or decreases the government will be able to buy the excess stock and store it, or release the stock that they have stored. This means that, in the case of sugar and tin, there will not be a shortage causing an increase in price because the government will be able to release stock that they have previously stored to maintain the output and price, therefore leading to no fluctuations in the price of sugar and tin. Another reason why using a buffer stock scheme to stabilise...

Words: 852 - Pages: 4

Premium Essay

Stock Trak

...When starting our stock track portfolio we set a benchmark to trade within the S&P 500 and to pay attention to different technology companies due to different phones and portable devices being released in recent news. So far we have only only purchased different equities based on recent information and keeping an eye on the market that in the past two months. We especially watched the market in early October when the market was very unpredictable. Our long term strategy thus far has made us ride out the stocks until it is necessary for Our first transaction was purchased on September 11th for 50 shares of Cisco Systems (CSCO) for $25.12 and it is currently selling at $23.26. Even though we are currently as a loss with this stock due to recent information they are down because of a recent joint venture that they are currently getting rid of 25% of their ownership so we are going to hold to see where this moves. Our next transaction was on September 18th of 30 shares for The Walt Disney Company (DIS) for 90.31 it is currently selling at $87.10, we are convinced the DIS is a solid that even though goes up and down it is a stable stock. The next stock we bought was Go-Pro (GPRO) on September 30th, in recent new Go-Pro has been under scrutiny due to a skier who was with his children in Switzerland and is claiming that due to the Go-Pro attachment to the helmet it hindered the use of the helmet when he fell which lead to his death. We bought 28 shares GPRO for $90.60 and it is currently...

Words: 590 - Pages: 3

Premium Essay

Stock

...According to “select data to screen on”, I select seven criteria to figure out which mutual fund that I believed is alluring to investments. My seven criteria are Morningstar Analyst Rating, Morningstar Risk, Annual Return, Year After Tax Return (no sale), Open to New Investment, Morningstar Rating and Equity Style box. Screening criterion: Morningstar Analyst Rating >= Gold Morningstar analyst rating is based on “funds past risk and load adjusted returns”. It analyzes the fund’s process, performance, people, parent and price. I choose Gold, which is the highest rating scale. According to Morningstar, “Gold is the Best-of-breed fund that distinguishes itself across the five pillars and has garnered the analysts' highest level of conviction”. I believe that professional rating is very important source for me to choose mutual fund. Morningstar Risk <= Below Average For long-term investment, I prefer below average risk investment. It is too risky to do a risky mutual fund as a long-term investment, because you could not predict future. 2013 Annual Return >=9 Annual return is very necessary criteria to consider if this mutual fund is profitable. I prefer the recently data, which could provide more helpful information for me to consider mutual fund. Based on the data, it shows average is 4.87 and top area is between 8.85-54.48. So I choose above 9, so my chosen mutual fund has the top annual return. 5 Yr AfterTax Return (no sale) >=14 After I choose...

Words: 780 - Pages: 4

Premium Essay

Stock

...Executive Summary With the unpredictable markets that have occurred in the past few months there truly was no need to go to any amusement park because no ride could take you on as many bumps, twist and drops that this economy has taken us investors on. The Stock-Trac Simulation was a great educational tool which gives beginners in the online trading world basic knowledge and tools to help succeed in the “world’s largest casino”. Today’s world is globalized and what makes a smart investor is someone who knows all about the different and diverse markets and companies of the world. For this assignment we had to invest in different companies and exchanges from all around the globe. Since we were new to investing, this project seemed to be a little overwhelming at first glance and we knew we needed some assistance in researching domestic and international markets. By using Yahoo Finance and Google Finance, we got the help and resources needed to create a diversified portfolio investing in bonds, futures, and stocks. Everyday as we would do our research on certain stocks and other investments, we continued to notice frightening downward trends in world exchanges from NYSE to Shanghai Stock Exchange. We knew before we began trading that there was high volatility in today’s market and it seemed to be causing unpredictable changes in price. These trends were causing havoc on the markets and many companies ending up going bankrupt or were on their last life line. Since this was a short...

Words: 3236 - Pages: 13

Premium Essay

Treasury Stock

...Treasury stock is an outstanding share which was repurchased by the corporation. Treasury stock can be reported using the cost or par value method. The mostly commonly used method between the two is the cost method. The cost method only requires firms to record The par value method requires a company to record the cost of repurchased stock at the value that they assure to shareholders is backed. The cost method requires companies to record treasury stock at price it was purchased at. Recording the transaction of acquiring treasury stock below par value under the cost method would require a journal entry consisting of a debit to Treasury Stock and a Credit to cash, which ignores the loss or gain contributed. Using the par value method for the same situation requires a debit to Treasury Stock and Additional Paid in Capital –Treasury Stock and a credit to cash. The Additional Paid in capital account is used to account for the difference in the par values. If the stock is repurchased at price above par value the entry under cost method would remain the same. While the entry under the par value method would be a debit to treasury stock and a credit to Additional paid in capital-Treasury Stock and cash. Whether the stock was purchased under or above par value affects the recording of the resale of the treasury stock. If the stock is sold at a price below the purchase price but above par value it would be recorded as a credit to treasury stock for the purchase price and the...

Words: 286 - Pages: 2